CHIẾC LÁ THU VÀ
THIỀN QUÁN
Hòa thượng Thích
Phước Tịnh
(Trích: Cành
Triêu Nhan, nhà xuất bản Đông Phương, trang 86-105)
Pháp thoại tại
Tu viện Lộc Uyển (ngày 03-10-2004)
Hôm nay là ngày tụng giới đầu
tiên của khóa An Cư kiết Thu. Ngoài kia đất trời đã chuyển mình theo từng cơn gió nhuộm đầy lá
vàng báo hiệu cho mùa thu đến. Những ai ở
đây lâu chắc đều biết, hằng năm miền
Đông Bắc Hoa Kỳ cứ mỗi độ vào thu thì trời rất đẹp. Những chiếc
lá vàng nâu pha sắc đỏ, rụng thật nhiều
vào trung tuần tháng mười và rụng liên tục trong vòng một tuần lễ. Tôi đã có may mắn được nhìn
lá chín đổi màu trải thảm trên những con đường nhân dịp tăng thân Lộc Uyển cử sang miền
Đông Bắc tổ chức khóa tu bên ấy. Khi trở lại tu viện, tôi có mang
về một món quà cho
thiền sinh nhân ngày đầu thu đến
tụng giới: Đây là hai chiếc lá phong.
Mùa thu thường gợi cho văn nhân,
thi sĩ thật nhiều cảm hứng và hầu hết
trong số họ thường ca tụng mùa thu. Trong cổ thi Trung
Hoa có hai câu rất dễ thương: "Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu". Tôi tạm dịch:
" Một chiếc lá ngô đồng rơi xuống là nhắc nhở cho
mọi người biết mùa thu đã về".
Làng Mai chúng ta cũng có một bài hát rất dễ thương, có thể trong dịp nào đó quý vị sẽ được nghe quý Thầy, quý
Sư Cô ở tu viện hát với những câu như thế này:
Một lá ngô đồng rơi,
Có hay chăng người ơi,
Thu đẹp đã về
rồi..."
Và tôi muốn giới thiệu bài hát đó
để quý vị thưởng thức mùa thu của đất trời.
Mùa thu còn được gọi là mùa lá rụng,
mùa mà cây cành trơ trụi chuyển mình để chuẩn bị chịu đựng mùa đông tới. Thời tiết
theo nhịp điệu vận hành của đất trời, thiên nhiên mà thay đổi thành các mùa xuân, hạ, thu, đông.
Trình tự này được biểu hiện và ẩn tàng liên tục, và đó là dịnh luật tất nhiên của vũ trụ. Sức sống có
mặt trong cây cỏ thực vật cho đến các loài động
vật cũng đều trải qua từng giai đoạn như thế.
Mùa xuân, mùa hạ thì tràn đầy nhựa sống; sang mùa thu sức sống lại thu hồi và tiềm
phục về trong tự thân để rồi vùi mình qua giấc
đông miên. Sang năm khi xuân đến,
cây cối lại đâm chồi nẩy lộc, ra hoa. Con người chúng ta cũng có một nhịp điệu
vận hành trong cơ thể giống như trời
đất vậy. Có tuổi trẻ của mùa Xuân, tuổi chín vàng của mùa hạ, tuổi xế
chiều rụng lá của mùa thu và tuổi trầm lắng,
tiềm phục sức sống lại trong giấc ngủ đông.
Trong vạn vật, đất trời lúc thời tiết giao mùa, chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ và dễ dàng, thế nhưng có khi trong tự thân, chúng ta lại không cảm nhận được mùa đông của đời mình. Thế nào là mùa đông của đời mình? Mùa đông của đời người được xem là giấc ngủ ngàn thu khi ta rời bỏ hình hài tứ đại này. Bây giờ sức sống được tiềm phục về lại cội nguồn của nó, sau đó nó sẽ có cơ hội tái hiện và đứng lên với một hình hài mới, một đời sống mới tinh nguyên như trước kia chúng ta đã từng có mặt.
Cho nên nhìn ra bên ngoài chúng
ta thấy đất trời chuyển mùa, những chiếc lá cuối thu se
sắt đổi màu; quay trở lại nhìn chính bản
thân, với những ai có kinh nghiệm ít nhiều về
đời sống chắc cũng đã nhận ra được mùa thu của
cơ thể, mùa đông của đời mình đang tới: nghe xương cốt mỏi mệt đau nhức gặm nhắm... Và những
cảm nhận rất sâu sắc, bén nhạy về điều
này đã được các văn nhân, thi sĩ diễn đạt thật
quyến rũ, qua thi ca, văn chương, âm nhạc và
hội họa... Những ai còn trẻ thì cảm nhận về
mùa thu đời mình tất nhiên không rõ nét bằng. Tôi không biết
quý vị có
cảm nhận mùa thu của mình hay
chưa. Riêng tôi trải qua gần sáu mươi mùa thu, cũng đã thắm vị mặn của thời gian từng ngày từng
giây của đời sống. Và chúng ta chắc cũng từng có những giây phút ngậm ngùi, chạnh lòng khi chẳng
biết nỗi buồn đến
từ đâu:
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
(Xuân Diệu)
Đó chính là những gì nằm rất sâu
bên trong chúng ta mỗi khi gió đổi mùa, khi sương thu rơi và khi cơ thể mình biến
chuyển. Tuy nhiên chúng ta thua xa những người nghệ sĩ kia, không thể sáng tác được những bài thơ, những
bản nhạc, những bức tranh cảm nhận cái tuyệt vời của mùa thu. Tại sao như vậy? Bởi những
giây phút đó, dù trong ta có thoáng thấy được lẽ vô thường của đời người, cái mong manh hiu quạnh
của con người, nhưng trước mắt ta có trăm ngàn điều kiện để ta trốn chạy những nỗi mong
manh hiu quạnh đó, nên khó có thể cảm nhận đời sống một cách sâu sắc. Chúng ta trốn chạy bằng
nhiều con đường: trốn chạy trong những canh
bạc, trong những tiệm rượu, qua hội hè. Ta tìm sự
khỏa lấp trong vũ trường, bạn bè, ca hát... và cách trốn chạy tuyệt vời nhất để quên đi mùa thu
của đời mình là để tâm vào một ngàn lẻ một chuyện tính toán, lo lắng, bận rộn, tưởng tượng, sầu
khổ vẩn vơ.
Do vậy, tuy đất trời có những sự
vận hành tất yếu nhắc nhở mỗi chúng ta phải trở về
cội nguồn, tìm lại năng lực sống vĩnh cửu
nơi tự thân, nhưng chúng ta vẫn cố tình bỏ quên, trốn chạy. Có khi mình mãi sống trong lãng
quên, đến lúc giáp mặt với "mùa đông",
tức bấy giờ đang nằm trên giường bệnh, chạm tay vào cái chết
thì lòng rất hoảng sợ, thấy cuộc đời mình chỉ là chuỗi dây dài chạy đuổi, lo âu. Tâm thức
chưa lúc nào dừng lại để thử tìm về tiếp
xúc với sự sống, để nhận ra được rằng trong tự thân ta sức
sống đang tiềm phục. Như cỏ cây từng tiềm
phục năng lượng sống để ngủ qua mùa đông, chuẩn bị
chờ xuân đến. Thế nên khi ta đang
còn ngắm được mùa thu của đất trời, điều
thông minh nhất của con người biết thực tập là
quay về nhìn lại chính mình, để nhận biết
sức sống đang tiềm phục trong hình hài mỏng manh này. Thế
thì, dù cuộc đời vô thường này theo quy luật đưa ta
vào giấc ngủ đông, ta vẫn không sợ hãi.
Ngày xưa, lúc giáo pháp của đức
Thế Tôn chưa có mặt, chưa có vị giác ngộ
nào xuất hiện trong cuộc đời, vẫn có những con người
đã thực sự nhận chân được mối tương quan của sự vận hành của vũ trụ và của con người. Những
con người ấy chỉ đơn giản nhìn một chiếc lá thu phai là
có thể cảm nhận được lẽ sinh diệt của
thân tứ đại và chạm tay vào sự sống vĩnh cửu nơi tự thân họ.
Kinh điển gọi những vị ấy là Độc
Giác Phật hay Bích Chi Phật. Chúng ta cũng với đôi mắt này, có khả năng giống như họ, cũng tiếp
xúc với lá thu nhưng mình vẫn chưa ngộ được là tại sao?
Trong những lời dạy của đức Phật,
chúng ta thấy có một câu chuyện rất ý vị, gọi là Bốn loại ngựa. Câu chuyện có thể trả lời
cho chúng ta câu hỏi trên và đây cũng là những nội dung mà các vị Phật Độc Giác đem ra ứng dụng.
Loại thứ nhất là loại ngựa chỉ cần nhìn thấy bóng roi đưa lên là liền
cất vó. Loại thứ hai mà đức Phật xác nhận là loại ngựa chỉ cần đập vào thành xe
hay khi roi chỉ vừa chạm đến
lông là lên đường. Loại thứ ba là loại ngựa đợi người ta dùng roi đánh vào thân khá đau nó mới chạy. Và loại
thứ tư là loại ngựa người ta phải dùng kim gắn vào đầu cây
roi châm vào thân thật đau thì nó
mới bắt đầu chạy.
- Loại ngựa thứ nhất đó là hình ảnh
các vị Độc Giác Phật, nhìn lá rơi là giác ngộ được lẽ vô thường, quay lại tự thân nhận ra
sức sống tiềm tàng trong hình hài và khi hình hài rã
mục trả về cho tứ đại thì sức sống kia vẫn
luân lưu không dứt. Đó là những người tự quay vào nhận ra tự tánh không sanh không diệt trong
chính con người họ.
- Loại ngựa thứ hai chỉ cho những
ai đã bị vô thường chạm tới người thân. Nhìn người thân của ta nằm thoi thóp trên giường bệnh,
đứt nối từng hơi thở, dù muốn cũng không thể giúp được gì, rồi giác ngộ được rằng hình hài
này đến rồi đi cũng chỉ một mình, không ai có
thể tặng cho ai được một hơi thở nào. Thế
rồi họ quay trở lại tự thân, quán chiếu sâu sắc trên mảnh
hình hài này, tìm ra nguồn sống vĩnh hằng đang
có mặt; như sức sống của thiên nhiên ngủ yên lặng qua mùa dông chờ mùa xuân sẽ vươn vai đứng
dậy.
- Loại ngựa thứ ba là ẩn dụ cho
những người đã cảm nhận được vô thường từ bản thân họ. Một buổi sáng thức dậy nhìn vào gương
tình cờ thấy tóc mình có vài sợi bạc, một chiếc răng lung lay là báo hiệu tuổi già, cảm thấy vô
thường đến gần hơn với họ rồi. Và sâu hơn nữa là
nhận ra cái chết đang gặm nhắm
từng giờ từng phút trong cơ thể. Nhận ra được điều này, họ quay về
tự thân, dừng lại đam mê tìm kiếm
những thú vui dục lạc; họ thấy tất cả chỉ là phù du, là tạm bợ và từ đó luôn sống với niềm
vui chân thật trong tự thân mình.
- Loại ngựa thứ tư chỉ cho những
ai gặp phải một bất hạnh tình cờ, chẳng hạn như một chứng bệnh nan y hay trải qua một cơn bạo
bệnh tưởng chết đến nơi, nhưng may
mắn hồi phục và vượt qua cái chết.
Họ nhận chân sâu sắc lẽ vô thường đã đi qua đời mình, nên sợ hãi khước từ tất cả những con đường hướng ngoại tìm cầu;
những con đường đem đến nguồi vui phù phiếm,
giả tạm. Đối với họ lúc này chỉ có
con đường duy nhất còn lại là tìm cho ra năng lực sống đang tiềm phục nơi tự thân. Năng lực này vốn
không sinh không diệt, nó có mặt trước khi ta có mặt, và khi
ta trả hình hài này cho vô thường
nó vẫn không mất đi.
Chúng ta hãy tự hỏi xem mình thuộc
loại nào trong bốn loại ngựa này. Tất cả chúng ta, đã hoặc cũng sẽ có những sợi tóc bạc, những
chiếc răng lung lay và chắc đều
biết cái chết đang chực chờ đổ xuống đời mình bất cứ lúc nào.
Ấy thế mà chưa bao giờ mình nhìn lại, chưa bao
giờ nhìn thấy "mùa thu" của đời mình.
Mặc dù đã nương vào Thánh giáo của
đức Thế Tôn trao truyền
qua những phương pháp thực tập, hành trì để quay trở lại thể nhận
tự tâm, thế nhưng chúng ta vẫn chưa tập trung năng
lực dể hồi chiếu soi rọi lại
chính mình một cách thấu đáo. Vì vậy khi tiếp xúc với mùa
thu đất trời, ta thường bị âm thanh, cảnh sắc vui
buồn... nhiễu loạn. Lòng ta xao xác buồn trước những chiếc
lá khô vàng trong cái không gian đìu
hiu cô quạnh.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô...
(Lưu Trọng Lư)
Rõ ràng vì đánh mất mình trong cảnh
sắc, chìm đắm vào âm thanh, năng lực của ta trở nên yếu đi, không còn khả năng hồi phục
và quy chiếu lại tự thân, do vậy mãi vẫn chưa giác
ngộ để thành vị Độc Giác Phật được.
Chúng ta có muôn vàn điều
kiện để ngộ đạo. Trời đất trao cho ta một gia tài tự nội như nhau, con mắt nhìn như nhau. Vừa mở mắt
nhìn, vừa lắng tai nghe thì điều kiện hồi chiếu
lại tự thân để ngộ đạo đã có mặt rồi. Thế
nhưng mình đã khờ dại, không như những vị Độc Giác Phật. Họ đặc biệt hơn chúng ta là đã từng thực tập
thiền quán nên khi mắt, tai tiếp
xúc với cảnh sắc, với âm thanh là các vị hồi chiếu
ngay lại chính mình, sống với tự thể không sinh không diệt của chính mình.
Đức Phật ngày xưa cũng trên nền
tảng nhận thức vô thường sâu sắc này đã làm một cuộc khởi hành đầy dũng mãnh, mới có thể đi
ngang qua sáu năm khổ hạnh trong rừng sâu mà không lùi bước. Ngài dõng dạc chỉ vào tòa cỏ
mà nói rằng: "Chưa thành đạo quả thì ta không rời tòa cỏ này". Cho nên điều
căn bản đầu tiên ngay khi tiếp xúc với ngoại
cảnh là phải nhận diện cho được bản chất vô thường của đời người
đang cùng lúc có mặt trong ta. Đời sống dù khổ đau hay hạnh phúc thì tất cả cũng chứa đựng sự
bất toàn, trong khi cái chết thì rình rập
chúng ta từng giây,
từng phút. Khi đã ý thức rõ ràng,
vững chắc trong từng ý niệm như vậy thì đó là nền tảng cho ta có thể trở về
cội nguồn sự sống.
Chỉ khi ta thực sự tiếp
xúc với vô thường, có tuệ giác về vô thường, ta mới
có thể thiết lập một nền tảng căn bản để
tiến đạo, mới vững vàng trên con đường tu tập
thiền định. Bằng không ta chưa thể phát triển đời sống tâm
linh của ta đến một tầng cao cần thiết. Tuệ giác căn bản của đạo Phật là
hiểu biết sâu sắc về
sự vô thường của thân thể. Và theo những hướng dẫn truyền
thống, khi chứng nghiệm tuệ giác vô thường qua quán chiếu
trên hình hài này, ta không những chỉ tiếp
xúc với tính chất mong manh, biến hoại của hình
hài, mà còn có thể nhận diện được lẽ vô thường trong
từng hơi thở. Khi tuệ giác vô thường luôn có mặt giúp chúng ta nhận biết
sống chết đi liền trong từng hơi
thở, nó cũng đồng thời giúp chúng ta thiết lập nền
tảng để thăm dò vào chốn thâm sâu
nhất của đời sống mình, tức là thăm dò vào bản thể không sinh diệt của chúng ta.
Tâm thức chúng ta như ngựa hoang
quen dong ruổi, đi đông về tây, lúc nào cũng muốn lấp đầy trống vắng, cô đơn bằng những tiếc
nhớ quá khứ, khắc khoải lo âu hiện tại hay những dự phóng cho viễn ảnh tương lai... Nhưng
ta hãy hình dung một người tử tù khi biết đích xác ngày
mai mình sẽ bị hành quyết
thì chắc chắn những ôm ấp kỷ niệm, vui buồn, những dong ruổi ước mơ kia liền
sụp đổ tức khắc. Mọi thứ không còn ý nghĩa gì khi biết
chắc một điều sự sống của mình chỉ còn kéo dài trong một ngày; tự
nhiên anh ta thấy chưa lúc nào tâm thức cảm nhận sự chết,
cảm nhận sự mong manh của kiếp
sống sâu sắc đến như vậy. Nếu
là người may mắn thì lúc bấy giờ tuệ giác vô thường sẽ phát
sinh, và con đường trở về đã mở ra cho người đó. Đó là lúc anh ta đang chạm tay vào chính "đời
sống thực" có mặt nơi mình.
Cũng như thế,
khi đã chạm tay tới vô thường rồi, ta có thể kinh nghiệm một điều
rằng, khi tuệ giác vô thường phát sinh và chúng
ta tiếp nhận được ở mức độ cao với nhất, đó
chính là nhận diện vô thường sinh diệt trong từng
hơi thở. Có chứng nghiệm được lẽ sống chết qua từng hơi thở, từng sát na thì ta mới có thể
thiết lập được nền
tảng vững chắc để bước vào nguồn sống vô biên vĩnh hằng của tự thân. Đức
Thế Tôn, các vị Bích Chi Phật, các vi A la
hán ngày xưa cũng đã đi còn đường này.
Để thiết
lập một nền tảng căn bản cho sự thực tập, chúng ta
cần hiểu biết các phương pháp tu tập về thiền
quán. Có ba phương pháp cốt lõi để tu tập: Thứ nhất là chỉ, thứ hai là quán và
thứ ba là thiền - bao gồm cả
chỉ và quán. Trong kinh Viên Giác, Thế Tôn đã mở cánh
cửa phương tiện chỉ dạy ba phương pháp, đó là chỉ
(Samatha), quán (Vipassana), và thiền (Bhavana).
Chỉ là ngưng lại, tập trung sự
chú ý vào một đối tượng. Nhưng thông thường tâm thức ta không bao giờ chịu dừng lại hay chú ý
chuyên nhất vào một đối tượng nào. Tâm ta có thói quen nhảy từ chỗ này sang chỗ khác, ví như khi
ta muốn mắt ta chú ý nhìn bất động vào một điểm, thì ta có thể nhận thấy nó rất khó thực hiện
đúng như vậy. Chỉ trong chốc lát là nó dời từ bên này sang bên kia, rồi đảo qua, liếc
lại. Ở mặt cạn bên ngoài còn như vậy, huống nữa là bên trong sâu thẳm của tâm thức. Tuy nhiên, có trường
hợp ta có thể chú tâm vào một đối tượng mà không chán, đó
là khi sự đam mê có mặt. Khi đã
đam mê vào một vấn đề gì thì ta có thể quên ăn, bỏ ngủ, vùi đắm vào đó không biết
mỏi mệt. Và có khi phải tạm bỏ công việc qua một bên, nhưng tâm thức ta cũng không bao giờ rời niềm
đam mê đó.
Điều kỳ lạ là tâm
thức ta chỉ thường chú ý, đam mê vào những gì dẫn dắt ta đi vào đường sanh tử, mà hiếm
khi hướng đến những gì có công năng giúp ta rời bỏ
phiền não, khổ đau. Thật vậy, nếu chúng ta muốn
tập trung vào thiền tập, buộc thân ngồi yên năm, mười phút
thì dễ, nhưng bắt tâm ý dừng lắng hoàn toàn năm, mười
phút trong thiền quán thì khó vô cùng. Trong đoạn đường dài một cây số thiền
hành, ta thử kiểm điểm xem có bao nhiêu bước chân ta đi trong chánh niệm.
Chắc không nhiều
lắm! Dĩ nhiên tâm thức mình đã quen được nuôi dưỡng bằng tập khí rong chơi đó đây. Mình buông thả cho thần
trí dạo chơi năm non, bảy núi rất dễ, nhưng bắt tâm gắn liền vào bước chân thiền
hành thì quả thật khó khăn. Nó không bao giờ chịu dừng ở một nơi nào. Vì thế, dừng lại chú
tâm vào một đối tượng là bước đầu tiên chúng ta phải thực tập.
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử
tập dừng lại ngồi yên, bình an vô sự. Ông cho truyền
khắp trong thiên hạ rằng ai có khả
năng tới để ông nuôi cơm, hầu nước cho ăn sáng, mặc đẹp với điều kiện là chỉ sống, sinh hoạt giới
hạn trong một căn phòng tù túng, nhỏ hẹp. Và nếu sống được như thế trong ba năm,
ông sẽ ban tặng một nửa vương quốc mà ông đang trị vì. Có một anh chàng kia đến dự tuyển và được
chọn. Người đàn ông này đầy đủ sức khỏe, đang sống một cuộc đời bình thường với gia đình, thế
nhưng khi sống trong điều kiện như vậy, chỉ sau năm thứ nhất,
anh ta
đến lạy vua xin được
trở về với vợ con. Anh không thể sống như thế
này được vì sống thêm nữa anh có thể điên mất.
Rõ ràng việc chú tâm vào một đối
tượng là sự thực tập rất khó khăn. Nhưng đó mới chỉ là cái khó cạn nhất đối với nhưng người
đang trên con đường thực tập thiền quán. Bước căn
bản nhất là chú tâm vào một đối tượng có thể
ta chưa được thuần thục là tại vì ta chưa có thói quen dừng lại, nên khả năng thăm dò vào chiều
sâu của tự tâm trở nên xa vời.
Cây phong kia tuy rụng lá nhưng
nó biết nhựa sống vẫn còn đang tiềm
phục trong thân mình. Nó không cần đi tìm đâu xa, nó chỉ
nhìn lại mình là thấy rõ sự sống vẫn nó mặt nơi tự thân. Ta cũng cùng một điều
kiện như thiên nhiên, chỉ cần nhìn lại mình và phục hồi năng lượng chánh niệm thì có thể chạm tay vào vào dòng
sống vĩnh hằng, không sinh không diệt. Ấy thế mà ta vẫn không thể dừng lại chỉ vì tâm thức
ta có thói quen hướng ra ngoài. Chỉ cần dừng lại được, buông lỏng được thì ta cũng có khả năng
như cây phong vậy. Dừng lại là chạm tay vào chính sự sống
đang tuôn chảy dạt dào trong tự
thân. Do vậy, chặng đường ban đầu của sự thực tập về
chỉ tuy khó, nhưng không có nghĩa là
không làm được, không có nghĩa là xa vời với con đường thiền tập.
Quán là gì? Quán là một từ có thể
dễ cảm nhận hơn. Nhìn vào một đối tượng, chúng ta nhận diện được nó, suy tư về
nó, chiêm nghiệm về nó, đó là hình thức quán chiếu
cạn nhất. Tất cả những quán chiếu
được vận dụng để soi sáng, để tư duy thông qua những điều
Phật dạy về vô thường, vô ngã của con người,
của thiên nhiên hoặc của tâm hành, được xem là quán chiếu
ở mức độ cạn. Được xem là mức độ cạn
bởi vì ta còn vận dụng trí lự để suy nghĩ, nói thầm và phân tích về
đối tượng. Ví dụ khi nhìn một bông hoa, ta nhớ đến lời dạy của một
vị thầy rằng, bông hoa này có mặt là do sự kết
hợp bởi nhiều nhân, nhiều
duyên, do ánh sáng mặt trời, sương, nước, đất, công sức, người trồng... và
trăm ngàn điều kiện khác để hoa có thể khoe hương
khoe sắc cho ta nhìn ngắm, ngợi khen. Hay khi
quán chiếu về con người ta khởi
tư duy, phân tích; ta thấy con người là một hợp thể ngũ uẩn,
không có thật tính, họ được biết qua cái tên do
cha mẹ đặt vào hình hài gọi là con người; hình
hài con người là do dự kết hợp của tứ đại, ngũ uẩn mà thành, họ vào đời là do sự phối hợp của cha
mẹ. Qua quá trình nuôi dưỡng trong gia đình, học đường và xã hội mà họ trưởng thành. Hay do tiếp
thu đời sống văn hóa tâm linh nên họ đã trở thành người tu... Tất cả những điều
kể trên sở dĩ gọi là quán chiếu ở mức độ cạn
là do mình còn khởi tư duy, thì thầm để phân tích về
đối tượng.
Bước vào mức độ quán chiếu
sâu hơn, chúng ta cũng phải đi từ mức độ cạn mà phát triển lên. Nghĩa là khi khả năng quán chiếu
về sự vật, về con người đã
thuần thục, thâm nhập vào tự tâm mình, bây giờ ta có thể quan sát
mọi đối tượng nhưng không còn dính mắc, không còn sinh ra ý nghĩ phân biệt đẹp xấu, vui, buồn,
khen, chê... Nhìn mà không khởi lên tiếng nói thì thầm
hay ý nghĩ phân tích. Khả năng bén nhạy
của sự nhận biết trực tiếp tự động đi sâu
vào từng đối tượng lúc nhìn, ta gọi đó là quán chiếu
ở mức độ sâu. Ta chưa có thể thâm nhập vào tầng sâu khi quán
chiếu, bởi khi nhìn
là có ngay sự phân biệt, vừa nhìn là tức khắc thấy có xấu đẹp, có thương ghét, có hạnh phúc khổ đau... và thông
thường tâm thức chúng ta khi chưa tu tập thì thường dính mắc, đắm chìm và bị dẫn dắt bởi đối tượng
mình tiếp xúc.. Chẳng hạn như khi tôi nhìn chiếc
lá phong có màu sắc rực rỡ, tôi không dừng
lại ở màu lá phong để cảm nghiệm sự có mặt trọn vẹn của nó mà nhớ đến
những câu thơ mà tôi từng học: "Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri
thu". Rồi từ câu thơ đó tôi nhớ đến
ông thầy đã từng dạy tôi học thơ lúc còn bé, nhớ đến
cô con gái của
ông thầy dễ thương thật, nhưng
tôi lại suy tưởng mông lung rằng trong đời tôi đã từng gặp nhiều người còn dễ thương hơn cô gái
kia vân vân và vân vân. Chỉ từ việc nhìn ngắm một chiếc
lá phong đơn thuần, đã nẩy sinh bao
nhiều điều lôi kéo mình
chìm trong chuỗi dài những ý nghĩ; đó gọi là mất mình trong dòng chảy của
suy tưởng.
Việc khởi quán khi nhìn đặc biệt
như thế nào với cái nhìn sinh khởi ý thức thì
thầm và để bị dẫn dắt bởi đối cảnh? Ta nên biết
rằng cũng là nhìn nhưng khi ta khởi ý thức có chủ động và nương vào Thánh giáo để quán chiếu,
nhận diện các đối tượng tiếp xúc, đồng thời
có năng lực của chánh niệm đi kèm thì vướng mắc,
chấp thủ cho đến phiền não, lo âu...
không thể nào phát sinh được. Ngược lại, khi nhìn mà ta để
mất mình trong đối tượng thì ta có thể bị dẫn dắt chìm nổi trong dòng sông vui buồn, hệ lụy,
sầu khổ, bất an. Chỉ một chút khác biệt về hình thức nhưng
kết quả cách xa muôn trùng.
Chúng ta đi vào phương pháp thứ
ba của sự thực tập đó là Thiền. Thiền
là gì?
Thiền là cách phát
âm của chữ Trung Hoa "Ch'an". Trung Hoa cũng chưa có một từ tương xứng để định nghĩa về
Thiền. Họ phải lấy nguyên ngữ Ấn Độ phiên âm
thành từ thiền na. Nguyên chữ Pali là Jhāna; Sanskrit là Dhyāna
và tiếng Nhật cũng không có từ tương ứng để dịch
đúng về Thiền. Họ chỉ dịch
chữ Thiền của Trung Hoa thành từ Zen của tiếng
Nhật.
Đầu tiên ta cần biết
là Thiền bao gồm cả Chỉ và Quán. Tức là trạng
thái tâm vừa tĩnh lặng vừa chiếu sáng, gọi đó
là Thiền. Một điều nữa, có lẽ
chúng ta đã biết đó là nguyên ngữ của chữ Thiền vẫn chưa có trong những từ tương
đương của Tây phương, bởi vì Thiền vốn là sản phẩm
có nguồn gốc từ Đông phương. Và Thiền
là một loại hàng mới nhập vào thế giới Tây phương
nên chưa được giới thiệu rộng rãi,
chưa có từ ngữ chính xác để dịch nó. Có thể nói chưa có từ ngữ nào có thể diễn dịch được, bởi vì
Thiền tự bản thân nó là một trực nghiệm, mà
con người phải
thâm nhập bằng cả thân và tâm. Những
từ ngữ như chiêm nghiệm, trầm tư, tập trung... là những từ Tây phương có thể tạm dùng để
chuyển dịch chữ Thiền; bởi vì khi ta nói chiêm nghiệm tức là có một đối tượng đển mình chiêm
nghiệm, hoặc nói tập trung là phải có chủ thể và khách thể, có một điều
gì đó để cho ý thức mình hướng về, trong khi bản
chất của Thiền là vượt lên trên các phạm trù đối lập, vắng bặt chủ thể,
khách thể. Cho nên có thể nói Thiền là trạng thái
lặng lẽ, tỉnh sáng đơn thuần giống như hạt nước
trên tàu lá sen rơi trở về biến mất trong lòng
đại dương. Nó là trạng thái trượt trở lại tâm
thức ban đầu của chính chúng ta.
Đông phương có một tác phẩm tuyệt
vời là Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Trong câu mở đầu của Đạo Đức Kinh. Lão Tử viết:
"Đạo khả Đạo, phi thường Đạo" có nghĩa là "Đạo mà nói được thì không phải là Đạo". Dẫn dụng
điều này nhằm đối chiếu
với chữ Thiền được nêu ra trong giai đoạn thực tập đầu tiên.
Như chúng ta đã biết
về bản chất, Thiền
rất khó hiểu và nó không thể nắm bắt qua ngôn ngữ. Cũng như thế,
để chứng nghiệm được Đạo thì tâm thức ta phải dứt bặt những suy nghĩ, không còn một gơn sóng ý thức thì thầm
mới có thể thâm nhập vào trạng thái gọi là Đạo. Đạo vốn vô ngôn, không lời. Cho nên dùng một
loại ngôn ngữ để diễn đạt một phạm trù phi ngôn ngữ là điều không thể, là tối kỵ. Có những trạng
thái chứng nghiệm của tâm không thể dùng lời nói để giải thích hay mô tả được. Vì ngôn ngữ,
chữ nghĩa luôn có những hạn chế và thường hay bị
hiểu lầm. Hơn nữa, ngôn ngữ loài người vốn
được đăt ra để gọi tên các sự vật, hiện tượng, hoặc những gì hiện hữu, tồn tại.
Chúng ta có thể là một triết
gia, một học giả truyền đạt được những kinh nghiệm về
trí thức; khai triển những ý tưởng uyên áo đến
với người, hay có thể là những nghệ sĩ tài ba để lại cho người, cho đời những tác phẩm điêu khắc,
thi ca, hội họa, âm nhạc... bất hủ, vượt không gian và thời gian. Nhưng trên con đường thiền
tập, với những con người đã sống trong Thiền, trong Đạo thì đây không phải là một triết
học mà là một trực nghiệm, tự thực chứng bằng khả năng "nhận biết". Và vì
là một trạng thái tự chứng nghiệm nên không thể truyền
đạt lại một cách chân xác, cho một ai khác được.
Tuy vậy, chúng ta không nên có cảm
tưởng Thiền là một điều
gì xa vời, khó thực tập. Ngược lại, có thể nói việc hành Thiền
khá giản dị. Khi nhìn hay quan sát bất kỳ một đối tượng nào, ta hãy nhìn bằng con mắt tĩnh lặng, sáng
rỡ trong giây phút hiện tại, nhận biết đối tượng rõ
ràng mà không khởi sinh ý niệm thì thầm về
nó, không để tâm ý đi lang thang thì đó chính là lúc mình đang ở trong trạng thái thiền
tập. Nhìn ra bên ngoài hay nhìn vào bên trong, ta cũng nhìn và nhận diện đơn thuần, sáng tỏ xừng đối
tượng mình đang tiếp xúc, đó là thiền
tập.
Tuy nhiên một điều
trở ngại là, khi có nỗi buồn, ta lập tức hóa mình vào nỗi buồn đó. Ta thấy mình chính là nỗi buồn và trầm
mình trong dòng sông buồn đang miên man chảy. Phép thực tập của ta là khi nỗi buồn hay một
tâm hành nào khác có mặt, ta chỉ nhìn chúng bằng con mắt bình lặng, tỉnh sáng, và như vậy, chắc
chắn ta luôn an trú được trong trạng thái thiền định. Chỉ cần làm được điều
này thôi đã là kỳ diệu rồi. Và đây là pháp "chiếu
kiến" của đức Bồ tát Quán Thế Âm trao cho ta.
Chỉ đơn thuần nhận diện từng tâm
hành đang có mặt là ta đang thực tập giáo pháp tuyệt vời mà đức Phật đã truyền
đạt. Chỉ cần nhận diện tất cả những đối tượng ta tiếp
xúc, từ bên ngoài cho đến bên trong mà
không khởi sinh ý thức xao động thì thầm là ta đang thật sự thực tập thiền quán. Điều
đó cho thấy ta đang an trú trong tâm thể bất sinh bất diệt của chính mình, cũng
có nghĩa là ta chạm tay được vào đời
sống miên viễn hằng tươi nhuận trong tự thân ta. Và chỉ cần làm một điều
này thôi thì dù "mùa đông" của đời người xảy đến,
ta giống như loài cây kia thảnh thơi vươn cành đón
tiếp, bình thản trả hình hài tứ đại này về
cùng cát bụi. Dòng sự sống đâu chỉ có mặt ở trong thân,
nó vốn là năng lượng nên tồn tại miên viễn và thênh thang đến vô cùng. Sinh mạng này có thể chấm
dứt bằng nhiều cách, nhưng sự sống (sinh lực) thì
không thể cắt đứt được. Như mùa thu làm
rụng những chiếc lá phong, nhưng mùa thu không làm chết cây phong được. Cây phong vẫn sừng
sững, hiên ngang đứng chờ mùa xuân tới, vì nhựa sống của nó vẫn còn cuồn cuộn trong
thân.
Mười phương ba đời chư Phật chỉ
truyền một pháp Niết
Bàn, tức chỉ trao cho chúng ta khối vàng ròng chứ không hề
trao một thỏi bạc hay thỏi đồng. Chư Tổ chỉ cho chúng ta con đường để hồi phục trở lại, nhận ra sự sống
không sinh không diệt vốn sẵn có trong tự thân, chứ không dạy cho chúng ta cách để có được chút an ổn
phù du trong cuộc sống ngắn ngủi này.
Ngày xưa, thiền
sư Càn Phong khi lên pháp tòa chỉ nói một câu: "Mười phương ba đời chư Phật chỉ có một con đường Niết
Bàn mà thôi, thế thì đầu đường ở chỗ nào?" Thiền
sư đưa cây gậy vẽ một vòng tròn rồi bước xuống tòa,
đi vào hậu liêu. Thế là thuyết xong một thời
pháp thoại. Đây là một công án trong hàng ngàn
công án của Thiền Đông Độ. Chúng ta hãy cùng chia sẻ một chút về
công án này để có thể thực tập một điều rất gần với
chính mình.
Điều cốt lõi mà bậc
giác ngộ trao cho chúng ta là phải tự mình chạm vào đương thể Niết
Bàn của chính mình. Ngài muốn chính chúng
ta đặt tay vào vùng đất vĩnh hằng, đó là sự sống luôn có mặt trong tự thân ta. Và nếu
ta có con mắt sáng thấy được đầu đường" để bước vào thì ta sẽ đến được con đường Niết
Bàn mà thiền sư Càn Phong đã chỉ. Chỗ nào là đầu đường?
Ngài dưa cây gậy vạch một vòng tròn và bảo đầu
đường là chỗ đấy. Chỗ nào vậy? Tổ Lâm tế từng nói:
"Sáu đạo thần quang chưa từng vắng mặt",
tức là sáu con đường mở ra để anh đi vào Niết Bàn phút giây nào cũng hiện diện trong
anh; hiện diện nơi mắt, nơi tai, nơi mũi, nơi lưỡi... anh. Nếu
ở mắt thì có khả nằng nhận diện tinh tường
từng đối tượng; biết rõ đây là bông hoa, đây là cây đèn,
đây là con người... không hề
lầm lẫn. Năng lực của cái nhìn và sự nhận diện trực tiếp
ấy không phải do hình hài mà có. Nếu
nói nó có được do hình hài này thì khi trút hơi thở, hình hài vẫn còn đó, mắt vẫn còn đó tại sao ta không
thể nhìn được. Cái nhận biết trực tiếp
không phải do khả năng suy tư, học tập, giáo dục từ bên
ngoài. Nhà trường dạy cho chúng ta muôn vạn kiến thức, nhưng năng lực nhìn là nhận biết
tức khắc thì ai có thể dạy cho ta? Khả năng nhận biết
đó vốn sẵn có, là bản thể không sinh không diệt
trong ta chiếu rọi ra bên ngoài đấy thôi.
Cho nên khi tiếp
xúc với mọi đối tượng, cảnh vật của thiên nhiên, đất trời, con người, ta nhận biết một cách tinh
tường mà không sinh khởi tiếng nói thì thầm
bên trong; tâm vẫn an trú ngay nơi đây và giờ phút này thì tức
khắc ta đặt chân vào con đường Niết Bàn. Tai ta
nghe tiếng sáo đồng vọng, tiếng
trẻ khóc, tiếng chim râm ran gọi bầy, tiếng
gió thì thào qua kẽ lá... nhưng không để cho âm thanh dẫn dắt, đó
chính là ta đang an trụ trong tự thể Niết Bàn của chính
ta. Lúc ấy tâm ta trở nên mênh mông
và bát ngát, không bị hạn cuộc trong không gian lẫn thời gian. Và những gì không bị giới hạn bởi
không gian và thời gian, thì nó có thể đi ngang qua ba cõi, không bị kềm
tỏa trong vòng sinh diệt, mất còn.
Khi tiếp
xúc với hiện tại mà tâm ta rỗng rang, vắng lặng là ta đang mở ra cánh cổng để
đi vào cõi Niết Bàn lồng lộng.
Nói đi vào là gượng nói thế thôi, chứ kỳ thực
thì ta không rời Niết Bàn nửa bước, vì đương thể Niết
Bàn có mặt ngay trong sát na hồi phục của tự tâm. Lúc bấy giờ ta là giọt nước trên lá sen, chỉ nhẹ nhàng buông mình là trở về với biển khơi bao la.
No comments:
Post a Comment