NGĂN CẢN MẶT TRỜI LẶN
Vị Heruka (đại sư Mật giáo) đi tới quán rượu của một người đàn bà tên là Vinasa và kêu rượu. Người đàn bà hỏi: “Bao nhiêu?” Ngài đáp: “Ngươi có bao nhiêu ta mua bấy nhiêu”. Bà ta nói: “Tôi có năm trăm hũ”. Ngài nói: “Ta sẽ trả tiền vào lúc mặt trời lặn”. Vị Heruka không những uống tất cả rượu mà chủ quán có mà còn bảo bà ta lấy rượu ở các quán khác về cho mình. Khi mặt trời sắp lặn, Ngài đặt con dao “phurba” của mình một nửa trong ánh sang, một nửa trong bóng râm, và mặt trời không thể lặn được. Ngài giữ mặt trời đứng yên lâu đến nỗi cả xứ bị khô hạn, cây cỏ đều chết cả. Trong bảy ngày Ngài cứ ngồi đó uống rượu với con dao một nửa trong ánh sáng, một nửa trong bóng râm.
Mọi người đều khổ sở và khiếu nại với nhà vua, vì vậy nhà vua tới gặp vị Heruka và nói: “Khất sĩ kia, tại sao không làm điều tốt cho chúng sinh mà lại uống rượu như vậy?” Ngài trả lời: “tôi phải làm như thế này vì không có tiền để trả cho chủ quán”.
Khi nhà vua hứa sẽ thanh toán tiền rượu, vị Heruka Thiêng dao đi và mặt trời lặn xuống.
Sau đó, vị Heruka đi tới Hang Kuru Kulla và trú ở đó. Vì tin phục Ngài, bà chủ quán Vinasa tới viếng Ngài với một con voi chở rượu và thực phẩm làm quà biếu. Bà xin Ngài nhận mình làm đệ tử và được Ngài dạy trọn vẹn các pháp tu tập cho tới khi đạt các quyền năng hoạt động ở dưới nước, bay trên không và đi xuyên qua chất đặc.
VINASA VÀ VUA XỨ URGYAN
Khi đi tới một nghĩa địa, vua xứ Urgyan bị một con rắn độc cắn, và người ta biết là chỉ có nước ở đáy biển mới có thể chữa lành cho Ngài. Người mang loại nước đó về cho nhà vua gặp một thanh niên đang khóc ở giữa đường và khi được hỏi tại sao lại khóc, anh ta nói nhà vua đã chết rồi. Quá đau khổ, người mang nước liệng chất nước quý đó đi rồi vội trở về hoàng cung để thấy nhà vua vẫn còn sống.
Người ta mời Vinasa, đệ tử của vị Heruka, tới cứu nhà vua, và khi bà lấy được nước đáy biển chữa lành cho Ngài, nhà vua phong bà làm Đạo sư của mình.
Hoàng hậu và các bà vợ khác của nhà vua phản đối sự có mặt của Vinasa ở hoàng cung, vì bà thuộc giai cấp hạ tiện. Vinasa rất muốn từ bỏ chức vụ của mình nhưng nhà vua không chấp thuận. Bà liền dùng huyền thuật tạo ra một em bé rồi nói rằng nó là đứa con do mình sinh ra một cách bình thường, sẽ là Đạo sư của nhà vua thay cho mình. Nhà vua nhận nuôi em bé, và về sau em bé trở thành một đai học giả có tên là Arya Lawapa.
TRỞ VỀ URGYA
Khi đã tới lúc giáo hoá người xứ Urgyan, bốn Dakini xuất hiện với một các kiệu khiêng Đức Liên Hoa Sanh và Mandarava tới xứ này.
Ở đây, hai người giả làm khất sĩ xin ăn ở các nhà nhưng rồi cũng bị nhận ra. Các quan trong triều đình nói với nhau: “Đây là kẻ đã bỏ vợ mình là Bhasadhara, giết vợ con cuả một viên quan. Bây giờ y lại sống với một mụ ăn mày. Y đã vi phạm luật pháp của vương quốc lại còn trở về để làm hại thêm cho chúng ta.”
Họ cho người bắt Đức Liên Hoa Sanh và Mandarava trong khi nhà vua không được biết vụ này. Hai người bị trói vào nhau, bị quấn vài tẩm dầu và bị xích vào một cái cọc. Người ta mang củi tới chất lên hai người, đổ dầu lên củi rồi châm lửa ở bốn hướng. Nhưng 21 ngày sau giàn hoả vẫn còn bốc khói với một cầu vồng bao quanh. Khi nhà vua hỏi nguyên nhân của hiện tượng này mà không ai dám giải thích, Bhasdhara nói: “Chồng tôi đã thọ giới, đã bỏ tôi và vương quốc vì đạo pháp. Mới đây khi trở về sống với một người đàn bà ăn mày, Ngài đã bị các quan buộc tội và hoả thiêu”. Nổi giận vì không được tấu trình về vụ này, nhà vua nói: “Nếu quả là hoá thân của một vị thần thì Ngài không thể bị thiêu chết”. Ở chỗ giàn hoả nhà vua thấy có một cái hồ với một hoa sen lớn ở giữa. Ngồi trên hoa sen là đức Liên Hoa Sanh và Mandarava, toả hào quang sáng đến nỗi làm chói mắt mọi người. Nữ Thần Đất và các vị Thần khác hiện ra cac tụng công hạnh của đức Liên Hoa Sanh ở thế gian. Nhà vua, các quan và dân chúng cũng ngợi ca Ngài và xin Ngài tha tội. Nhà vua thỉnh cầu Ngài làm Thái sư và truyền bá Giáo Pháp. Đức Liên Hoa Sanh nói: “Ba cõi luân hồi là tù ngục. Dù có sinh ra làm Pháp Vương người ta cũng không thoát khỏi dục lạc thế gian. Dù có pháp thân mà không biết cách nhiếp phục tâm thì cũng không tránh được những đau khổ của kiếp luân hồi. Hãy giữ tâm thanh tịnh, đạt trí huệ, rồi sẽ đắc quả Phật.”
Tâm của nhà vua tức khắc được chuyển hoá, sau đó Ngài và mọi người đều quy y thọ giới. Đức Liên Hoa Sanh ở lại xứ Urgyan 14 năm, giáo hoá người dân và thiết lập Giáo Pháp.
MANDARAVA VÀ EM BÉ SƠ SINH
Mandarava đi tới Hang Thiêng Heruka của các dakini và trở thành Sư trưởng của họ. Có khi bà hoá thành hình dạng một Dakini, có khi thành một con chó rừng hoặc một con cọp cái, có khi thành một bé trai hay bé gái, để truyền bá Giáo Pháp, hoá độ các loài.
Ở thành phố Pal Pang Gyu có một cặp vợ chồng thợ dệt. Người vợ chết khi sinh một bé gái. Nghĩ là đứa con sơ sinh không thể sống không có mẹ, người chồng đưa cả đứa con và cái xác của vợ mình vào nghĩa địa. Mandarava trong hình dạng cọp cái đi tới nghĩa địa để ăn thịt xác chết và trông thấy em bé đang bú người mẹ đã chết. Cọp cái cho em bé bú sữa của mình rồi trong những ngày sau đó cọp ăn thịt xác người mẹ và cho em bé ăn những miếng thịt nhỏ.
Khi được 16 tuổi, em bé là một thiếu nữ đẹp như tiên, và Mandarava để cho cô tự lập. Đức Liên Hoa Sanh biến thành một tỳ khưu để hướng dẫn cô nhập môn Mandarava của Vajra Sattava.
ĐẠO SƯ CHĂN BÒ
Một người chăn bò đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh đạt quyền năng Vajra Sattava, vì vậy trên trán của người này xuất hiện chủng tử “Hum”. Đức Liên Hoa Sanh đặt tên cho người này là Hum Kara và dạy người này giáo lý “Hum” Dài, ban cho y quyền năng thần túc thông, có thể đi nhanh với hai chân ở cách mặt đất một thước. Do công phu tu tập trên, “chỗ hở Brahma” (đỉnh đầu, thiên môn) của người chăn bò mọc lên một khối u giống như đầu của Thần Đầu Ngựa Hayagriva. Sau đó trên chỗ tim của người này xuất hiện hình chuỳ kim cương, trên trán xuất hiện hai chuỳ kim cương bắt chéo, và cửu khiếu của y phát ra ánh sáng. Người chăn bò cũng được người chủ của mình và nhiều người khác nhận làm đạo sư của họ.
SHAKYA SHRI MITRA
Con gái của vua Dharma Ashoka là Dharma Bhitti nằm mộng thấy một người có mầu da trắng với hào quang nhiều mầu đổ nước thiêng lên đầu mình và nước đi vào thân thể qua chỗ hở ở đỉnh đầu. Mười tháng sau nàng hạ sinh một đứa con trai nhưng nàng đem bỏ đứa con không cha này ở ngoài sa mạc. Một con chó tìm thấy em bé và mang nó về cho vua xứ Urgyan. Khi được 5 tuổi, em bé được đưa vào tu viện Shri Nalanda để học Giáo Pháp và năm môn khoa học. Tu Viện Trưởng đặt tên cho em là Shakya Shri Mitra và cho em gia nhập đoàn năm trăm học giả của Nalanda.
ĐỨC LIÊN HOA SANH VÀ NGOẠI ĐẠO
Khi biết mình phải trở về Bodh Gaya, Đức Liên Hoa Sanh trước hết đi tới nghĩa địa Jalandhar để tham thiền. Trong khi đó một vị vua ngoại đạo tên là “Bán Thần Toàn Tại” cử bốn đạo sĩ ngoại đạo tới Bodh Gaya để lật đổ Phật giáo, mỗi vị đạo sẽ được tháp tùng bởi chín học giả và năm trăm tín đồ. Khi tới Bodh Gaya họ thách người Phật giáo tranh luận công khai và nói rằng: “Nếu thua, các người phải theo tín ngưỡng của chúng ta, nếu các người thắng, chúng ta sẽ theo Phật giáo”. Bốn học giả Phật giáo bàn với nhau: “Chúng ta có thể đánh bại họ bằng lý luận, nhưng không thể thắng họ ở môn huyền thuật”. Bỗng một người đàn bà có nước da mầu xanh, cầm một cái chổi xuất hiện và nói: “Nếu thi đua với ngoại đạo, các người sẽ thua. Chỉ có một người có khả năng đánh bại họ. Người đó là Kim Cương Liên Hoa, hiện giờ đang ở nghĩa địa Jalandhar. Các người hãy tụ họp ở chùa Cây Bồ Đề, làm lễ cúng và cầu nguyện, ta sẽ đi mời Ngài”. Nói xong người đàn bà vụt biến mất, và các tín đồ Phật giáo làm theo lời bà.
Sáng hôm sau, Đức Liên Hoa Sanh tới hoàng cung ở Bodh Gaya, từ trên cao hạ xuống qua các cành cây như một con chim lớn rồi tức khắc nhập thiền. Khi mặt trời lên cao, Ngài biến thành một Pháp Vương bay trên Bodh Gaya. Vua xứ Bodh Gaya cho là Ngài chỉ có tài huyền thuật chứ không có khả năng tri thức nên ông nói với Ngài: “Một đứa bé tám tuổi giả vờ làm học giả như ngươi làm sao có thể thắng nổi ngoại đạo?” Đức Liên Hoa Sanh trả lời: “Thưa Ngài, tôi là một lão già ba ngàn tuổi. Ai nói là tôi chỉ mới tám tuổi? Người không hiểu biết như Ngài mà lại thi đua với tôi hay sao?”
Đức Liên Hoa Sanh hoá hiện bốn người giống hệt mình ở bốn hướng tranh luận với ngoại đạo, còn Ngài thì vẫn nhập thiền. Người Phật giáo thắng cuộc tranh luận này và họ vỗ tay vui mừng. Trong cuộc thi hoá ra lửa, phe ngoại đạo thắng với mười ngọn lửa nhiều hơn, nhưng khi họ đang vỗ tay thì Đức Liên Hoa Sanh kêu “khoan đã”. Rồi Ngài đặt bàn tay lên mặt đất, một hoa sen vụt mọc lên và từ bông hoa một ngọn lửa bốc cao lên tới tận đỉnh thế giới. Bốn đạo sĩ ngoại đạo và một số tín đồ của họ bay lên bầu trời. Đức Liên Hoa Sanh họ và rốt cuộc họ hạ xuống đất rồi nói với Ngài: “người đã đánh bại chúng ta về tranh luận và huyền thuật, nhưng bẩy ngày nữa ngươi sẽ chết”. Họ đi vào trong rừng lập hắc thuật để giết Ngài. Tất cả các tín đồ khác của họ đều quy y Giáo Pháp.
Đức Liên Hoa Sanh làm lễ tạ ơn vị Dakini đã xuất hiện hôm trước. Sáng hôm sau vị Dakini tên là: “Diệt Ma Quỷ” hiện ra đưa cho Ngài một cái hộp bằng da đóng đinh sắt và nói: “Hãy nhiếp phục quỷ thần và ngoại đạo”. Trong hộp là một quyển giáo lý bí mật dạy cách làm sấm, chớp và mưa đá xuất hiện sau bẩy ngày làm lễ cầu đạo.
Trong khi đó, bốn đạo sĩ ngoại đạo làm lễ với ý định gây ra cái chết cho Đức Liên Hoa Sanh rồi trở về thành phố của họ, nhưng vừa về tới nơi thì sấm sét nổi dậy đánh chết họ và làm thành phố bốc cháy, tất cả những người ngoại đạo sống trong thành phố đều chết hết.
Đức Liên Hoa Sanh lên nóc hoàng cung ở Bodh Gaya thi triển quyền năng rống như sư tử làm cho những người ngoại đạo nghe tiếng rống của Ngài phải kinh sợ và quy y Giáo Pháp. Trong tiếng chiêng, trống, lẫn tù và, người ta vui mừng khiêng Ngài ở trên đỉnh đầu và gọi Ngài là “Thánh Sư Tử Hống”. Các vị vua lân bang mời Ngài tới vương quốc của họ để giáo hoá, và do đó Phật giáo phát triển rộng rãi. Những người ngoại đạo mới theo Phật giáo ở Bodh Gaya gọi Ngài là “Đấng Chiến Thắng Nhiếp Phục Tất Cả”.
HOÀNG TỬ TÀN TẬT
Vua của xứ Serling ngoại đạo có một người con tàn tật. Vị hoàng tử này có khuôn mặt xương, tái xanh và rất xấu, một mắt bị mù, chân trái và tay phải bị què, thân thể tiết ra mùi hôi như da thối. Vua và hoàng hậu ngượng vì đứa con của mình nên họ giữ kín hoàng tử ở trong cung. Khi hoàng tử lớn lên và muốn cưới vợ, họ nói: “Người tàn tật và xấu xí như vậy, không có cô gái nào muốn lấy đâu. Ngươi nên đi tu và chúng ta sẽ trợ cấp cho ngươi”. Hoàng tử trả lời: “Đạo giáo chỉ có bề ngoài, bên trong thì trống rỗng. Nếu cha mẹ không tìm cho con một người vợ, con sẽ đốt cung điện rồi tự tử, hay con sẽ giết cha mẹ”. Hoàng tử cầm một ngọn đuốc dọa sẽ làm đúng như lời. Rốt cuộc nhà vua tìm được cho đứa con tàn tật của mình một người vợ là công chúa con của vua xứ Baidha, sau đó vua và hoàng hậu đi khỏi cung điện của mình để sống xa hoàng tử. Công chúa tỏ ý không hài lòng với người chồng của mình đến nỗi hoàng tử sợ nàng sẽ bỏ trốn.
Trong khi tham thiền, Đức Liên Hoa Sanh nhìn thấy vấn đề rắc rối của cặp vợ chồng này. Ngài đi tới sân hoàng cung dùng thần thông hóa hiện nhiều người nam nữ đeo đồ trang sức bằng xương người và nhảy múa. Công chúa muốn ra sân để xem cuộc trình diễn nhưng hoàng tử không cho. Nhìn qua cửa sổ trông thấy Đức Liên Hoa Sanh, công chúa thốt: “Phải chi mình có một người chồng giống như người này thì sung sướng biết bao!”
Đức Liên Hoa Sanh nói: “Nếu một người đàn bà có chồng mà yêu một người khác, người đàn bà đó sẽ đau lòng vì hai người không thể sống với nhau. Nếu một người đàn ông yêu một người đàn bà không yêu mình thì sẽ có hại, giống như bị ma quỷ phá, và hai người không thể sống với nhau. Nếu chồng vợ với nhau, không kính trọng nhau, giống như tên cướp khét tiếng Ara không tôn trọng ai cả, thì như vậy hai người cũng không thể sống với nhau.”
Nghe thấy những lời này hoàng tử và công chúa rất cảm động nên họ đi ra chào Ngài, dâng lễ vật cho Ngài và quy y Phật Pháp. Nhà vua nhớ lại việc làm trước đây của Đức Liên Hoa Sanh ở xứ Baidha nên không bằng lòng và nói: “Tên ăn mày này đã giết đạo sĩ của ta, phá hủy cung điện của ta”. Nhà vua ra lệnh bắt Đức Liên Hoa Sanh nhốt vào một cái khoang bằng gạch, chất rơm xung quanh rồi đốt. Sáng hôm sau, người ta không thấy cái khoang bằng gạch nhốt Đức Liên Hoa Sanh đâu cả mà thấy một bảo tháp bằng vàng hiện ra từ lúc nào ở chỗ đó. Nhà vua, hoàng hậu và thần dân của họ đều sám hối và trở thành người Phật giáo.
LIÊN HOA SANH, DANH HIỆU CHÍNH THỨC
Sau đó Đức Liên Hoa Sanh thuyết pháp cho các vị thần, Naga Dakini và quỷ ở cõi của họ bằng ngôn ngữ của mỗi loài. Ngài cũng thuyết pháp cho loài người ở Trung Hoa, Assam, Ghasha, Trusha và nhiều nơi khác ở Ấn Độ, và Ba Tư. Ngài dựng nhiều đền chùa và tu viện cùng với 824 ngôi ở Tây Tạng. Trong cõi trời của Đức Quán Thế Âm, Ngài làm một bảo tháp bằng thạch anh, vì những công hạnh này, Ngài được gọi là Liên Hoa Sanh.
CẬU BÉ BÀ LA MÔN
Khi tham thiền trong cõi trời của Đức Quán Thế Âm, Ngài Liên Hoa Sanh trông thấy một vị vua ngoại đạo tên là “Thần Vishnu của các Naga” đánh chiếm và cướp phá Bodh Gaya. Đền thờ và cung điện bị pháp hủy, các tu sĩ bị bắt buộc hoàn tục, và dân chúng khốn khổ vì vị vua tàn bạo này.
Một hôm người con gái của một người Bà La Môn dang chăn bò thì trời mưa nên nàng trú ở một cái hang và ngủ tại đó. Nàng mộng thấy Đức Liên Hoa Sanh với hình dạng một thanh niên đẹp trai đến giao hợp và truyền pháp cho mình. Mấy ngày sau nàng nói cho người chị dâu biết về giấc mộng và mình đã có thai nay muốn tự tử. Biết chuyện này, người anh của nàng nói rằng anh ta sẽ nuôi đứa con. Sau đó nàng hạ sinh một đứa con trai. Một chiêm tinh gia quen với gia đình tiên đoán số mệnh của đứa bé này rất tốt và nó được đặt tên là “Sambhara Tinh Túy Của Thời Gian”. Năm lên 8 tuổi em bé hỏi mẹ: “Cha của con là ai?” Người mẹ khó và nói: “Con không có cha”. Em bé lại hỏi: “Vua của xứ này là ai và ai là đạo sư của Ngài?” Người mẹ trả lời: “Nhà vua tên là “Vishnu của Naga”, và Ngài có nhiều đạo sĩ”. Em bé nói: “Người ta không nên nuôi một đứa con không có cha, vậy mẹ hãy để cho con đi tới Bodh Gaya”.
Ở Bodh Gaya em bé muốn sống ở một tu viện ngoại đạo, nhưng không được phép vì còn quá nhỏ, sau đó em tìm được một chỗ làm trong bếp của hoàng cung.
Biết nhà vua thích ăn cá sống, em bé tự biến thành con cá trong dòng suối rồi để cho người đánh cá bắt mình và dâng cho vua. Khi nhà vua sắp cắn vào con cá thì nó tuột khỏi tay Ngài, chui ngay vào trong bụng làm cho Vua đau vô cùng. Khi các đạo sĩ tới hoàng cung để cứu nhà vua thì em bé hiện nguyên hình nổi lửa đốt cung điện làm tất cả những người trong đó chết hết. Em bé trở về thành phố Sahor và thọ giới tu sĩ. Sau khi vua ngoại đạo chết, người Phật giáo ở Bodh Gaya xây một ngôi chùa ở nơi hoàng cung cũ và tái lập nền cai trị Phật giáo. Trong suốt một năm người ta tìm người xứng đáng để tôn làm vua nhưng không tìm được ai cả.
Một hôm em bé giả ăn mày đến ngoài ở chợ vào lúc nhóm người tìm một vị vua đi tới với một con voi. Họ bố cáo rằng người nào được con voi dâng cho một cái bình tượng trưng vương miện sẽ được coi là vua. Khi con voi được thả ra, nó chạy thẳng vòi thẳng đuôi tới trước em bé rồi đặt cái bình lên đầu em bé. Thế là em bé trở thành vua xứ Bodh Gaya.
Về sau, khi nhà vua gặp lại mẹ, bà không tin vị vua này là con trai của mình mà nói rằng con của bà đã chết trong trận cháy nhà trước đây ở Bodh Gaya. Nhà vua liền cầu nguyện cho có một con cá xuất hiện ở dưới một tấm ván và nói với mẹ: “Nếu lời cầu nguyện này thành tựu thì mẹ phải tin rằng con là con trai của mẹ”. Quả nhiên ở dưới tấm ván có một con cá và người mẹ tin nhà vua chính là con của mình. Trong thời của vua “Sambhara Tinh Túy Thời Gian” Phật giáo được truyền bá rộng rãi và vương quốc được thịnh vượng.
ĐỨC LIÊN HOA SANH Ở XỨ KHOTEN
Đức Liên Hoa Sanh trở lại Bodh Gaya làm lễ khánh thành chùa và hoàng cung mới được tái thiết, xây nhiều tháp và chép lại các kinh sách bị mất để phục hồi Giáo pháp. Ngài cũng tới xứ Khoten (miền đông Turkestan) nơi có loại cây “Asafoetida” dùng làm thuốc chữa bệnh, và ở lại đó 200 năm để thiết lập Đại Thừa. Sau đó Ngài tới biên giới Ấn Độ và Nepal để tham thiền. Khi có bảy người thợ săn đi tới với một đàn chó sủa ầm ĩ. Ngài dùng huyền thuật làm cho chúng không sủa nữa. Sợ hãi, nhóm thợ săn trình lên nhà vua sự việc và Đức Liên Hoa Sanh không được phép ở lại xứ này.
CÔ GÁI KHỈ VÀ CÁC CHƯỚNG NGẠI
\
Đức Liên Hoa Sanh tới ngụ ở chùa Shankhu. Trong khi đó vợ của vua Ge Wa Dzin xứ Nepal đã chết khi hạ sinh cô con gái. Xác hoàng hậu cùng với đứa con sơ sinh được để trong nghĩa địa. Một con khỉ trông thấy em bé mang về nuôi, và khi lớn lên nó chỉ ăn trái cây mà thôi. Khi được 10 tuổi, tay của cô bé có màng giống như chân vịt, nhưng cô rất đẹp. Đức Liên Hoa Sanh tới nghĩa địa truyền pháp cho cô bé và đặt tên cho cô là Shakya Devi. Sau đó Ngài đưa cô ta tới một cái hang để dạy Giáo Pháp. Ở đây Ngài lập một Mandala bằng chín ngọn đèn. Khi Ngài ngồi thiền với cô bé thì có ba chướng ngại xuất hiện. Thứ nhất là vào buổi tối sấm chớp cản trở họ tham thiền, nhưng ngừng lại khi họ xả thiền. Hậu quả của việc này là hạn hán diễn ra trong ba năm. Thứ hai là vào nửa đêm Ma Vương xuất hiện phá rối cuộc tham thiền của họ rồi biến mất. Hậu quả của việc này là nạn đói hoành hành khắp Ấn Độ và Nepal. Thứ ba là vào buổi sáng sớm một con chim cản trở họ tham thiền, hậu quả là ma quỷ ở Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng gây bệnh dịch cho người và gia súc.
Vì ba điều này, Đức Liên Hoa Sanh hỏi ý kiến các vị thầy cũ của mình. Các vị này bàn với nhau rồi khuyên Ngài nên học giáo lý “Dorje Phurba” Kim Cương và Dao Thiêng, phương pháp nhiếp phục ma quỷ, với Học giả Prabhahasti.
Đức Liên Hoa Sanh viết thư cho học giả này và ông ta gửi cho Ngài một quyển giáo lý “Phurba” nặng đến nỗi một người khó có thể khiêng nổi. Khi quyển này được mang tới hang, các ma quỷ gây chướng ngại đều biến mất, Đức Liên Hoa Sanh và Shakya Devi có thể tu tập không gặp trở ngại nào. Ngài nói: “Ta giống như hoa sen, mọc lên từ bùn mà không ô trược vì bùn”. Rồi Ngài chép một bản giáo lý “Phurba” và cất giấu ở trong hang. Hơi nước bốc lên từ biển, thành mây và mưa, hoa nở và trái cây chín. Nạn đói và bệnh dịch biến mất, mọi người đều hạnh phúc. Sau khi thiết lập Giáo pháp ở vùng này Ngài được gọi là “Vị Thầy Chiến Thắng Của Các Dakini”.
CÁC HÓA THÂN CỦA ĐỨC LIÊN HOA SANH
Đức Liên Hoa Sanh thường hóa thành nhiều hình dạng khác nhau để diệt trừ ác trược. Có khi Ngài là một người ăn mày hay một bé trai tám tuổi, có khi Ngài biến thành sấm chớp hay một luồng gió, có khi Ngài trở thành một người đàn bà đẹp, có lúc ngài là chim, thú, hay côn trùng, có khi Ngài là một y sĩ hay một chủ giàu có. Những lúc khác Ngài hóa thành một chiếc thuyền cùng làn gió để cứu người bị nạn ngoài biển, hay nước để dập tắt một đám cháy. Ngài dạy người thất học, đánh thức người lười biếng, và nhiếp phục người ganh tị bằng các hành động vị tha. Để hóa giải tham, sân, si của loài người, Ngài hóa thành Ba Vị Thầy Quán Thế Âm, Văn Thù và Kim Cương Thủ. Để nhiếp phục sự kiêu ngạo, Ngài trở thành Thân, Khẩu, Ý hay Ba Thân Phật. Để giải trừ ganh tị Ngài trở thành Năm vị phật Thiền (Ngũ Trí Như Lai). Vì vậy Ngài được gọi là “Người Có Những Điệu Múa Huyền Diệu” hay “Người Có Quyền Năng Biến Hình.”
CÁC BẢO TẠNG CỦA ĐỨC LIÊN HOA SANH
Nhiều quyển sách do Đức Liên Hoa Sanh viết ra được Ngài cất giấu ở thế gian, ở các cõi trời và trong cõi của loài Naga ở các biển và hồ, để bảo tồn cho các thế hệ tương lai những giáo lý nguyên thủy, không sai lạc. Vì vậy các Dakini gọi Ngài là “Người Có Quyền Lực Về Các Bảo Tạng Cất Giấu”. Nhiều văn bản được cất giấu này được viết trên lá cọ, trên lụa, hay trên giấy xanh với mực bằng vàng, bạc, đồng, sắt, hay bột đá, đựng trong hộp mạ vàng, hũ sành, hộp đá, sọ, hay ngọc quý. Tất cả những điều Ngài dạy đều được chép và cất giấu. Những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật cũng được Ngài cất giấu để không bị ngoại đạo xuyên tạc. Chỉ có những “Terton” hay người xuất lộ văn bản mới có quyền lực tìm thấy và xuất trình những quyển sách được cất giấu này.
Ngài giao cho các Dakini và các trí giả nhiệm vụ bảo hộ các bảo tạng này. Ngài ban phép cho các quyển sách được cất giấu để chúng không rơi vào tay những người không xứng đáng vì không có công đức. Như vậy các giáo lý, lễ truyền pháp, dòng truyền thưa qua các kiếp tái sanh, và việc thực hành tôn giáo đều được giữ gìn nguyên vẹn.
Trong một vùng rộng lớn núi Khang Kar Te Say ở miền nam Tây Tạng gần Nepal và núi Tri Shi Trik ở Trung Hoa, Đức Liên Hoa Sanh cất giấu 108 quyển sách lớn, 125 bức tượng quan trọng, năm quyển giáo lý bí truyền tinh yếu rất hiếm, các kinh sách Phật giáo của Đạo Bon, các sách về y học, chiêm tinh học nghệ thuật và công nghệ. Đức Liên Hoa Sanh cũng cất giấu các bảo tạng như vậy ở các hang và các đền chùa xứ Nepal. Ngài cũng chôn giấu các bảo vật thế gian, các loại võ khí huyền diệu và thực phẩm để giúp đỡ các Terton có nhiệm vụ xuất lộc các văn bản quý báu đó. Tất cả số văn bản và phẩm vật phụ thuộc mà Ngài đã cất giấu được tính là mười triệu món.
CÁC BẢO TẠNG VÀ CÁC TERTON
Đức Liên Hoa Sanh nói với Shakya Devi: “Argadeva (Thánh Thiên) và Nagarjuna (Long Thọ) sẽ lấy ra một trong những bảo tạng được cất giấu, và do đó sẽ nhiếp phục được ngoại đạo”.
Shakya Devi hỏi: “Thưa Đại sư, số bảo tạng lớn này có nguốn gốc như thế nào, và tại sao được gọi là bảo tạng? Người nào sẽ xứng đáng để tìm thấy những bảo tạng này?”
Đức Liên Hoa Sanh trả lời: “Các bảo tạng có nguồn gốc là việc Quỷ Tharpa Nagpo bị tiêu diệt. Tâm của nó biến thành Tám Nghĩa Địa Lớn. Da của nó biến thành giấy, tay và chân là bút, những chất tiết ra từ trong thân thể của nó là mực. Những thứ đó gây ra Năm Độc, và từ Năm Độc sinh ra chữ viết. Sọ, miệng và mũi của nó trở thành vật đựng các bảo tạng. Nội tạng, ngón tay và ngón chân của nó là nơi cất giấu các bảo tạng. Sáu bậc trưởng thượng sẽ tuyên bố ai là người có quyền lực tìm thấy bảo tạng. Từ ngũ tạng (tim, gan, phổi, bao tử, ruột) sẽ sinh ra các Đấng An Lạc (Phật, Bồ Tát). Từ năm giác quan sẽ phát sinh Năm Lực (tín tâm, tinh tấn, chánh niệm, định, huệ) cũng như Ngũ Hành (địa, thủy, hỏa, phong, không). Từ ngũ hành sinh ra Thân (Pháp thân), Ý (Báo thân) và Khẩu (Hóa thân).
Có mười tám loại bảo tạng. Người tìm thấy bảo tạng lớn sẽ được coi là con mắt, còn các terton nhỏ hơn sẽ được coi là mí mắt. Nếu có một terton nào được gọi là hoạn (Euch) thì người đó giống như nước mũi của quỷ. Một terton an lạc hơn sẽ giống như thức (consciousness) và trí (mind). Một terton có đạo tâm trung bình sẽ giống gan và mật. Đó là cách nhận ra những hạng người có quyền lực tìm ra các bảo tạng”.
Đức Liên Hoa Sanh nói tiếp rằng các bảo tạng không thể được tìm thấy tất cả cùng một lúc, mà sẽ lần lượt được xuất lộ mỗi khi loài người cần được hướng dẫn. Các terton cũng hiếu như hoa Ưu đàm (Udumbara). Khi có một terton sinh ra đời, hoa Ưu đàm sẽ nở. Nếu một terton thuộc giai cấp chiến sĩ hoa sẽ có mầu trắng, thuộc giai cấp tu sĩ hoa mầu đỏ, thuộc giai cấp thương gia hoa mầu vàng, và nếu thuộc giai cấp lao động hoa mầu xanh. Ngay sau khi một terton ra đời, người mẹ hoặc người cha của terton đó sẽ qua đời. Không thể có hai hay nhiều terton ra đời cùng một lúc (hay cùng thế hệ), vì chỉ có một terton tái sinh vào mỗi lúc. Quyền tìm ra các bảo tạng chính yếu sẽ được dành cho sáu người lần lượt sinh ra kế tục nhau, và sẽ có năm terton thứ yếu. Các vị vua, người giàu có, cư sĩ, và những người tham của cải vật chất sẽ không thể trở thành một terton.
ĐẠO SƯ BÒ CẠP
Sau khi làm xong các công việc khác ở Nepal và Kosala, Đức Liên Hoa Sanh tới hang Phullahari nơi Đức Kim Cương Thủ hiện ra và nói rằng Ngài sẽ đạt được quyền năng ở nghĩa địa lớn gần Rajagir. Khi tới nghĩa địa đó Ngài trông thấy một con bọ cạp khổng lồ có chín đầu, mười tám sừng, mỗi đầu có ba mắt. Bọ cạp bảo Ngài trở lại ngày hôm sau để nhận quyền năng. Ngày hôm sau, bọ cạp lấy ra từ dưới tảng đá một cái hộp bằng đá hình tam giác đựng quyển Giáo Lý Phurba (để nhiếp phục ma quỷ) và Ngài hiểu ngay nội dung của quyển này. Mỗi mắt và mỗi sừng của bọ cạp phát ra một thừa, tức một đạo pháp.
No comments:
Post a Comment