Con người hay thiên
nhiên-chỉ với mỗi trái đất thôi-con người cũng đã là quá nhỏ bé, huống chi với vũ trụ thì rõ ràng con người không biết có tỉ lệ nào với vũ trụ
cả. Và từ ngàn xưa khi văn minh khoa học chưa có gì để giải thích
các hiện tượng xảy ra ở quả địa cầu chúng ta, lúc đó con người trong cuộc sống
hằng ngày thường hay sợ hãi đối với năng lực của thiên nhiên . Do vậy mà con người thường tưởng tượng các vị thần hoặc
giả tưởng tượng ra có ông trời là bậc sinh ra mọi việc. Thật vậy chúng ta cũng đã từng thấy
trong thần thoại phương đông cũng như phương tây có thần mặt trời, thần sức
mạnh, ở núi có sơn thần, ở sông có giang thần , ở biển có long
vương, có thần sấm ,thần mưa lũ vv và vv…Lý do con người tạo ra những đấng siêu việt như thế là cốt để làm
điểm tựa cho tư tưởng trong việc cầu xin ,và vì lòng tham của con người nên
việc cầu xin các đấng siêu nhân đến nay vẫn còn tồn tại đầy rẫy.
Nhưng sự thật có vị thần linh nào ban cho ta những
gì ta cầu xin ở họ không ? chắc chắn rằng chẳng bao giờ có hiện thực. Và vì vậy
Tàu có câu nói để đời là :”Nhân nguyện như thử, như thử, thiên ý dị nhiên dị nhiên”, nghĩa là người nguyện là như thế, nhưng ý trời đâu phải vậy. Nói trắng ra chẳng có cái ông trời hay vị thần
nào giúp ta cả.Cách đây hơn 2500 năm, xứ Nepal thuộc Ấn Độ, có một vị thái
tử sinh ra và ông đã mặc thị “ thiên thượng,
thiên hạ, duy ngã độc tôn”nghĩa là trên trời, dưới cũng trời, chỉ có con người là duy nhất, tức là chẳng có ai khác con
người, hay chẳng có ai làm gì cho con người. Và cũng vì con người phải tự lo cho con người,
hay mỗi bản thân phải tự lo cho mỗi bản thân, nên mộthôm, Ngài, trong một ngày đã thấy cảnh
sinh, lão, bệnh, tử.Ngài đã suy tư và đi tìm con đường làm sao thoát được bốn cái khổ
nầy. Thật vậy khi ta sinh ra có gì sung sướng đâu, ngay cả ta cũng chẳng có ý
niệm nào muốn sinh ra, rồi đến già rõ ràng cũng khổ, không biết bao nhiêu việc phiền
toái mình không muốn nhưng nó vẫn đến với mình, rồi bịnh cũng khổ và cuối cùng
đến chết cũng khổ.Cũng vì để đi tìm con đường làm sao con người
thoát được bốn cái khổ lớn ấy, Ngài đã rời gia đình, rời yêu thương quyền quí, tự tu tập, suy
nghĩ trong bảy năm, cuối cùng Ngài đắc đạo dưới cây đại thụ. Người đời sau
đó để kỷ niệm sự đạt chính quả của Ngài mà gọi cây nầy là bồ đề vì đạo của Ngài
là đạo Bồ Đề. Mà đạo Bồ Đề là gì ? Bồ đề chẳng phải là cái cây hay bất cứ hình
thức nào. Ngài Lục Tổ Huệ Năng cũng đã cho ta biết Bồ Đề là thế
nào theo bài kệ dưới đây:
Bồ Đề bản vô
thụ
Minh kỉnh diệt phi
đài
Bản lai vô nhất
vật
Hà xứ nhạ trần ai.
Nghĩa là Bồ Đề gốc không phải là cây, gương sáng cũng
chẳng phải là đài, mà tất cả đều là không, thành ra chẳng ở đâu mà
bụi bám vào được. Bồ Đề là
vô tướng vô sắc. Và
người ta tôn ngài là Phật. Phật không tự là một đấng siêu nhiên nào, tự nhiên
mà có, mà là tên gọi một nhân vật đã đạt được sự toàn thiện, toàn mỹ, như vậy hễ ai đạt đến độ toàn thiện, toàn
mỷ như Ngài thì được tôn xưng là Phật . Vì thế mà ta đã có hằng hà sa số Phật.
Trở lại như
ta đã biết từ ngàn xưa, con người thường tưởng tượng ra những đấng siêu
nhân, vi dụ người ta cho có thần mặt trời, thần sấm, thần làm mưa…rõ ràng là chẳng thật. Mặt
trời soi sáng, sấm sét, gió bão đó là những sự kiện theo qui luật vật lý. Vũ trụ này đang như hôm nay thì cũng là
theo qui luật vật lý mà thành. Khoa học đã chứng minh vụ nổ lớn ( big bang) cách đây hơn 13 tỉ
năm làm cho nhiều khối tinh vân vô cùng to lớn đã tự tách ra từ đại thể và
những khối nhỏ bay ra trong không gian , sau đó sau đó theo định luật hấp dẩn
của Newton các khối tinh vân đó tạo thành các hệ, như hệ thái dương, hệ ngân
hà, hệ sao chổi v.v…nghĩa là mọi sự việc xảy ra đều do một nhân duyên nào
đó thế thôi, chẳng ai tạo ra , và vũ trụ luôn biến đổi chẳng bao giờ ngừng
nghỉ,
Bây giờ ta thử xem đạo
của ngài thái tử đắc đạo là như thế nào?
1.Khi đạt được chánh
đẳng chánh giác, ngài đã bảo với mọi người là: “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ
thành, tức là, ai cũng có thể thànhPhật. Đây là điều nói lên sự bình đẳng, nghĩa là
ta cũng chẳng có gì khác người, các người cũng như ta, miển là cũng tu tập như ta. Trong thân phận trước khi xuất gia, Ngài là một thái tử quyền uy và giàu có, lại
là người đã thành chánh quả, nhưng Ngài không độc tôn, tự tôn. Rõ ràng Ngài là hiện thân cái vĩ đại của những vĩ đại. Ngài bình đẳng
như mọi người ,cái mà chẳng ai làm được ,
2.Về con đường tu tập, Ngài cũng đã nói rất rõ
con đường đó, nhưng về cách đi thì Ngài dạy rằng: “ Các người hãy thắp đuốc các người đi “. Đây là điều nói lên sự tỉnh thức và giác
ngộ trong tinh thần muốn trở thành tích cực. Đúng, như chúng ta bây giờ chúng
ta muốn đến đâu thì chúng ta tự đến đó, sẽ không có chuyện tự nhiên mà ta từ
điểm A đến điểm B. Ta muốn đắc đạo thì ta phải tu tập. Như ngay cả việc muốn
trở thành người thì loài linh trưởng, như khoa học đã chứng mimh,phải tự tiến
hóa hàng triệu triệu năm, không ai sinh ra con người cả.
3.Về nhân và quả, Ngài cũng dạy rằng nhân nào
thì quả ấy.Hễ nhân lành thì quả sẽ
lành, còn nhân ác thì sẽ gặp xấu. Đây là một điều công bình, không có gì phải
cầu xin, và cầu xin thì cũng chẳng bao giờ có. Chỗ này cũng xin nói đến
Phật giáo có cầu siêu không ?
Trong quan niệm chết là sự biến dạng của nghiệp thức
về sự sinh và tử nầy,
Phật giáo có hai quan điểm, một là tái sinh tức thì, hai là qua giai đoạn
chuyển tiếp thân trung ấm nghiệp lực của mỗi chúng sanh. Quan điểm đầu cho rằng
tái sanh xảy ra từc thời trong một sát na niệm tưởng, không để trống một khoảng
khắc nào, Sự sinh tử
theo quan điểm này xảy ra cực kỳ nhanh chóng và được xem là một tiến trình liên tục, Còn quan điểm thứ hai cho rằng một số
trường hợp phải qua một sự chuyển tiếp, ở đó chúnh sinh mang dạng “thân trung
ấm “ lưu lại trong khoảng thời gian từ một đến bảy tuần lễ, thông thường thì thọ sinh là bảy ngày , tuy cũng có
thể lâu hơn nữa do sở duyên chưa thích hợp.
Quan điểm tái sinh tức
thời được khẳng định bởi giáo lỳ nguyên thủy. Do quan niệm hiện tượng chết và tái sinh diễn ra tức thời
và không có cái gọi là linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào của Phật giáo
nguyên thủy, nên có thể nói rằng Phật giáo không có nghi lễ cầu siêu, vì cầu siêu không có tác
dụng gì đến người đã chết,chỉ tốn công mất của mà thôi. Có nghĩa là khi người
nào đã tạo ra nhân thế nào thì quả của họ là thế ấy, không có gì để cầu xin, ví
như ta bỏ thùng dầu dưới đáy rồi đập thùng đi thì chắc chắn dầu sẽ nổi lên dầu cho một số đông đảo quần chúng có cầu
khẩn, chắp tay cầu rằng số dầu ấy chìm thì dầu cũng không làm sao chìm
được .
Thật ra Phật giáo Bắc
tông truyền từ Ấn Độ qua các nước phương Bắc như Trung hoa, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam
trong khoảng 500 đầu cũng không có nghi lễ cầu siêu cho người
đã chết. Nghi lễ này thật sự chỉ bắt đầu từ đời Lương vũ Đế (464-549) qua lễ từ
bi đạo tràng sám pháp và lễ Thủy lục Không pháp hộ siêu độ. Đến đời vua Đường
minh Hoàng(685-762) Thủy lục Không trở nên rất phổ biến và trở thành nghi lễ chính thức để cứu độ những
người chết trong chiến tranh và lễ nầy được truyền sang Việt Nam sau đó. Vì thế
lễ cầu siêu đó ngày nay tại Việt Nam chỉ là hình thức văn hóa của Trung hoa pha trộn cho với đạo Phật .
Theo pháp sư Đạo
An (sinh vào khoảng 312 -314(?) dưới thời Hoài Đế nhà Đông Tấn ) Ngài là ưu kiệt
danh tăng của
Phật giáo Trung hoa, Ngài là người đầu tiên khởi xướng việc lấy họ Thích làm họ
chung cho người xuất gia, và điều nầy đã thành thông lệ cho đến ngày nay thì
nguồn gốc siêu độ ở thời đức Phật không có. Phật giáo truyền đến Trung quốc ở
thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc nầy. Thời Đường minh Hoàng vì quá sủng ái Dương
quí Phi nên có loạn An lộc Sơn. Nhờ QuáchTử Nghi, đại tướng đương thời mới bình định
được cuộc nổi loạn, triều đình lệnh tại mỗi chiến trường chính xây dựng một miếu thờ
gọi là khai nguyên tự vì đúng vào niên hiệu Khai nguyên, thỉnh cao tăng, đại đức tụng kinh bái sám truy điệu cho
quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đình cử hành gọi là pháp hội siêu
độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời người dân cũng thỉnh
pháp sư đến làm Phật sựsiêu độ tạo ra phong tục cho đến ngày nay. Nói tóm lại Phật giáo không có lễ Cầu siêu.
4 Mặc dù Ngài đã đắc
đạo, và những gì Ngài nói đều chân thật và rõ ràng, nhưng Ngài cũng đã nói :” Ta nói nhưng các ngươì chớ vội nghe ta”. Đây là sự tự do chọn lựa, không bắt buộc
ai chưa rõ, chưa biết mà tin. Cứ tự do suy nghĩ rồi đến với ta hay không đến
với ta. Đây là tinh thần dân chủ không giáo điều.
5 .Đức Phật chẳng ban cho ai cái gì và cũng chẳng
ban được cho ai cái gì- Mà cái gì ta có là tất cả do ta làm, chẳng khác gì một người cha có
sự học vấn uyên bác, nhưng người con không chịu học, lêu lỗng thì người cha
cũng không thể cho con cái uyên bác của mình được, con muốn uyên bác thì phải
học tập như người cha, thế thôi, công bình.
6. Đức Phật cũng không phải tu tập riêng cho cá nhân
mình , mà chính Ngài đã đi tìm con đường cho chúng sinh, nên đã đem tất cả những gì ngộ chứng truyền đạt lại cho chúng sinh, và Ngài muốn tất cả chúng sinh cũng đều đạt được như Ngài, đây là tinh thần bác ái vĩ đại, Ngài đã vì chúng sinh.
7. Đức Phật vì chúng sinh cho nên Ngài
cũng khuyên ta không được sát sinh, vì Ngài quan niệm tất cả động vật, kể cả con
người đều là chúng sinh.Rõ ràng Ngài là người vô cùng nhân ái, đạo đức. Ngài không bao giờ nói đến sự trừng phạt ai.
Ngài cũng chẳng bao giờ nói rằng nếu không nghe ta người sẽ vào địa
ngục, không và không bao giờ.
8. Đạo của Ngài là
đạo khoa học: trong quy trình cấu tạo vũ trụ hoặc nhân sinh, Ngài cho rằng đều
do từ mười hai nhân duyên mà thành. Ngài cho rằng, nhà bác học Pháp Lavoisier
cũng đã chứng minh: vật chất không thể mất đi mà chỉ biến dạng hình hài. Còn vấn đề chẳng dơ chẳng sạch thì sao? Lấy ví
dụ khi ta ăn thức ăn, lúc đó ta cho là sạch nhưng khi thức ăn được tiêu hóa thì
nó được ta gọi là dơ. Vậy dơ hay sạch chỉ là do sự biến hóa qualại. Miếng cá sống ta không thể ăn được vì cho nó
là tanh, nhưng khi nấu chín thì nó trở thành ngon. Tại sao cũng miếng cá đó mà
lúc thì cho là tanh, lúc thì cho là ngon? ấy cũng chỉ vì tác dụng qua lại của
vật chất và nhiệt. Đâu có gì là nhất thiết, cho nên nói về khoa học trong học
thuyết của Phật, nhà bác học Albert Einstein có phát biểu như sau :” nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các
nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo.”
Phật giáo không cần xét
lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học, vì
Phật giáo bao hàm cả khoa học, cũng như vượt qua khoa học. Tôn giáo tương lai
sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần
học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên, đặt trên căn bản đạo lý phát xuất từ kinh
nghiệm tổng thể gồm mọi lãnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật
giáo sẽ đáp ứng các điều kiện đó.
Trong Phật giáo không chấp nhận cầu xin, số mạng. Cầu xin tức là tiêu cực, còn Phật giáo là đạo tích cực, đạo của
tỉnh thức và giác ngộ. Phật giáo cũng không công nhận ai có quyền ban cho,
và cũng chẳng ai ban cho được. Còn số mạng thì rõ ràng chẳng có, bởi nếu con người có số tức có đấng nào đó ban cho mỗi
cá nhân mỗi số mệnh. Và trong thực tế mỗi người có cuộc sống và tư tưởng hoàn
toàn khác nhau: kẻ giàu sang, kẻ khốn cùng, kẻ thông minh, kẻ u tối. Như vậy đấng nào đó đã không
công bình khi ban cho con người một cái số như vậy. Như thế ta có thể nào tôn trọng đấng đó không, vì đấng ấy rõ
ràng đã hành động không công bình. Như vậy rõ ràng
là chẳng có gì là số mạng cả vì chẳng ai ban cho ta cái số. Nghĩa là
tất cả đời ta đều do duyên và nghiệp cấu thành.
Trong chế độ Cộng sản, ai cũng biết là Cọng sản chủ trương ba không:
không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo. Với tôn giáo họ cho đó là thuốc phiện, là thứ ru
ngủ tâm hồn yếu đuối, với gia đình, họ cho đảng là đại gia đình, theo đảng
là phải bỏ gia đình, nên trong cuộc cải cách ruộng đất, tổng bí thư Trường
Chinh đã đấu tố cha mẹ, còn vô tổ quốc vì họ chỉ biết một thế giới đại
đồng trong chủ nghĩa Cọng sản, không có ranh giới quốc gia. Cũng vì thế mà Cộng sản luôn đánh phá tôn giáo và Phật giáo không
nằm ngoài mục tiêu của họ.
Sau 30-4-1975 khi Mỹ bỏ
miền nam Việt Nam, Cộng sản có dịp đánh phá Phật giáo toàn diện và rộng rãi. Họ dựng ra
cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam“ trên thực tế là giáo hội quốc doanh và
cấm giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất hoạt động. Đã gọi là quốc doanh có
nghĩa là kinh doanh cho nhà nước,và muốn như thế Cọng sản đã dùng những đảng
viên đầu trọc giả sư vào các chùa trong nước cũng như xuất khẩu ra ngoài nước ở
những nơi có người Việt sinh sống. Những sư giả này cũng tạo lập chùa theo chỉ
đạo của các tòa đại sứ hay lãnh sự của Cộng sản , để lừa phỉnh những người có tâm
Phật đến chùa , thứ nhất để đưa họ lạc đường chánh đạo, hai là để làm tiền
cho nhà nước Việt Nam . Họ đưa những người có tâm Phật lạc đường chánh đạo bằng
cách: không bao giờ giảng về Phật pháp mà chỉ nói những ngày lễ mời Phật tử về
dự. Việc không giảng về Phật Pháp cũng dễ hiểu: Giảng để làm gì, vã lại họ đâu
phải là sư thật mà biết Phật Pháp để giảng. Mấy tên giả sư nầy nói nhiều
về sự cúng dường: Cúng dường là công đức vô lượng, nên những người không hiểu
Phật Pháp cứ tin mình cúng dường tức là đã có công đức. Lại có nơi, những giả
sư bày ra trò “cúng sao, giải hạn, xin xăm…”(tạo mê tín sai chánh pháp) dể
cho mấy người còn đầy sân si tin theo.
Thực tế sao hạn là cái
gì? Mà làm sao giải? Phật có nói chổ nào trong kinh là sao hạn đâu! – Những giả
sư nầy cố tạo những người có tâm phật thành mê tín vu vơ. Nếu có nhiều người mê tín tức là Cộng Sản đã
thành công vì đã phá hoại được Phật Giáo chân chính lại được có nhiều tiền. Khi ta tới những chùa của các giả sư nầy,
ta có cảm tưởng đây là một hồi trong truyện Tây Du Ký Diễn nghĩa của Ngô Thừa
Ân. Trong truyện, bọn yêu quái thường biến những cảnh chùa thành tiểu lôi Âm
đánh lừa thây Đường Tăng vào bắt để ăn thịt. Bọn yêu quái cho rằng ăn được thịt
Đường Tăng thì sẽ sống cả ngàn năm. Mà Thầy Đường Tăng trong truyện là đại diện
cho tâm Phật, Tôn Ngộ Không đại diện cho trí tuệ, Bát Giái đại diện cho bản
chất trần tục, Sa Tăng đại diện cho tâm, con ngựa đại diện cho phương tiện.
Ở đâu, trong nước hay
ngoài hải ngoại, bọn giả sư cũng giống như bọn quỷ trong truyện Tây Du, tất cả
đều muốn ăn thịt hút máu những người có tâm Phật. Tuy nhiên, trong truyện Tây Du, bọn quỷ không bao giờ ăn thịt
được Đường Tăng, nhưng bọn giả sư ấy giờ đã hút được
khá nhiều máu của những người có tâm Phật hiện tại. Và như vậy, trong tương
lai, Cộng Sản có triệt tiêu được Phật Giáo không? Xin thưa: không bao giờ!
Không phải ai cũng mê tín nghe theo bọn đầu trọc giả sư đó! Từ xưa, ở nước ta
cũng đã có nhiều lần Phật Giáo bị đánh phá, nhưng Phật Giáo vẫn tồn tại và phát
triễn đến ngày nay. Như Đại Sư Mãn Giác đời Lý (ông tên tục là Nguyễn Trường –
thường gọi là Lý Trường – Thân phụ là Hoài Tố, người dất Lũng Triền, Hương An)
có thơ rằng
“Mạc vi xuân tàn hoa
lạc tận
“Tiền đình tạc dạ nhất
chi mai”
(Đừng tưởng xuân tàn
hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai)
Xuân có tàn, hoa
vẫn còn chẳng bao giờ rụng hết!
Tóm lại,
đạo của Phật là đạo của: tự do, dân chủ, công bình, bác ái, tích
cực, tỉnh thức, giác ngộ, khoa học, không giai cấp, không tự tôn. Những điều
nầy là những điều mà tất cả loài người tiến bộ trên thế giới đang đấu tranh để
đạt đến. Cũng vì thế nên tôi theo đạo Phật.
No comments:
Post a Comment