Wednesday, April 8, 2015

Hồi Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh (2)



VUA TỐNG ĐẾ NGỰ ĐIỆN CỬA THỨ BA 

Làm lành được phước:
 

Làm cầu, sửa cho thiên hạ đi, thần thường phò hộ.
 

Làm dữ phạt tội:
 

1. Giết người mà cướp của, bị cọp nhai
 
2. Đoạt thơ của người không đem tới, bị bắn.
 
3. Làm mưu giết chồng, hại chồng bị phân thây xẻ thịt.
 
4. Đốt nhà hoặc săn bắn bị bào lạc.
 


Tống đế vương, đến tại đáy biển đông nam. Địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, chia ra 16 ngục nhỏ, kể ra sau nầy:
 
1.    Ngục hàm lỗ nước mặn.
 
2.    Ngục mà huờn dà nu, gông xiềng.
 
3.    Ngục xuyên lặt, đục sườn.
 
4.    Ngục đồng thiết, quát hiểm, nạo mắt.
 
5.    Ngục quát chỉ, nạo mỡ.
 
6.    Ngục kiềm sài tâm cang, móc gan tim.
 
7.    Ngục khối nhãn, móc mắt.
 
8.    Ngục sản bì, lột da, căng da.
 
9.    Ngục nguyệt túc, cưa cẳng.
 
10.  Ngục bát thủ cước giáp, rút móng.
 
11.  Ngục hấp huyết, hút huyết.
 
12.  Ngục đảo điêu, treo ngược.
 
13.  Ngục phân ngung, sả vai.
 
14.  Ngục thơ hoa, ăn giòi tửa.
 
15.  Ngục kích tất, đập đầu gối.
 
16.  Ngục ba lâm, mổ trái tim.
 


Làm quan không biết ơn vua, không đạo tôi: dân không lo sưu thuế cho nhà nước: vợ phụ bạc chồng, lộn chồng bỏ chồng, trốn chồng hỗn với chồng, hồi nhỏ cha mẹ đã chịu cho người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi mà cãi họ lại, đầy tớ phản chủ thơ -kỳ quân lính ở bạc với người làm đầu (quan thầy của mình ): kẻ làm công ăn gian chủ tiệm; tù vượt ngục, bị đày mà trốn, hại người bảo lãnh và quan cai trị trong sở, hoặc làm cho người thân bị khổ; không biết ăn năn chừa lỗi, trừ công còn dư quá thì hành; cứ theo địa lý để quân lâu, hoặc cữ không cho làm mả, hoặc bày cải táng đào mả lấy cốt tồi tàn, hoặc không đắp mả ông bà cha mẹ để loạn lạc ( xiêu mồ lạc mả ): dụ người làm phạm luật; xúi chúng kiện cáo làm thơ rơi giấu tên, hoặc dán lời kiêu ngạo mà giấu tên, hoặc dán lời nói xấu tiết cho con gái, phá đám hôn nhơn ( cưới hỏi ) mà giấu tên; hoặc viết thơ hồi, tờ để: làm giấy tờ giả mạo; đòi tiền bán chịu rồi mà chẳng dỉ sổ, hoặc trả nợ rồi mà không cho giấy không xé giấy: tập ký tên giả, khắc con dấu giả; sửa số bạc tiền trong giấy tờ, đều làm hại người, các tội kể ra đó, tra ra nhẹ nạng, sai quỉ Đại lực giam vào khám lớn, tùy theo tội, dẫn vào các ngục nhỏ hành cho đủ số rồi giải qua cửa thứ tư mà hành theo các ngục khác. 

Nếu ai nhớ ngày vía trẫm, là mồng 8 tháng 2 hay ăn chay nguyện vái không phạm các tội kể trên đó nữa lo việc làm lành mà trừ, sau thác xuống khỏi bị ngục nầy.
 
Thầy Nguơn Hiền thiền sư đặt bài khuyên đừng ủ con gái. Mạng người là trọng, nên phép nước nghiêm trị việc án mạng (nhơn mạng). Nếu làm mưu làm hại oan, dẫu trốn khỏi tội Dương gian trời cũng hại mau lắm. Bởi cái mưu giết người, là lòng độc ác, mang tội nghịch thiên là trái lòng ưa sống của trời. Kíp chầy cũng trả chẳng tha. Người đời làm cho loại chí một hồi, sau an8 năn không kịp. Nay nhiều kẻ phạm tội dương gian âm phủ, nhứt là tội ủ con gái! hoặc ủ con chửa hoang! Tuy việc ấy là kẻ ngu hay làm, song quen thói rồi, nhiều nơi bắt chước. Bởi cớ ấy trời bớt số giảm kỷ, hoặc phạt cùng mạt tuyệt tự (không con trai ). Nói chi đầu thai kiếp khác thường mạng là luật chung. Nghĩ thử nó đầu thai làm con, mà đền ơn cho mình, nỡ nào mà giết con cho đành đoạn? Huống chi kẻ vô hậu, cầu có chút gái còn khó thay, như vậy đủ biết phước nhiều thì có trai, phước ít mới có gái, còn vô phước thì không có con chi hết. Mình phải răn lòng sát hại làm phước mà cầu trời cho sanh trai, vì muốn kế tự, thì phải tu nhơn tích đức. Độc ác con gái chửa hoang, sanh ra thì quyết giết! Sao không biết xét, rất đỗi kẻ vô hậu còn nuôi con nuôi thay! Huống chi máu thịt của mình trong bụng sanh ra, cũng lập thế mà nuôi như kẻ nuôi quá phòng vậy, thì khỏi mắc oan nghiệp. Nếu không chừa lỗi độc, thì bị tuyệt tự, trông chi sanh đặng con trai. Người quân tử có nhơn, rán khuyên đời mà cứu nhiều mạng, thì âm đức lớn lắm.

VUA NGŨ QUAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TƯ 

Làm lành hưởng phước:
 

Thí quan tài và đồ liệm, thì nhà có thần phò hộ.
 

(Phong Sắc xin thích nghĩa khoảng nầy: bởi kinh Ngọc lịch tàu có in hình, khoảng nầy có vẽ cái trại thí hòm, có chất hòm, nhiều người đến khiêng những hòm thí. Các sãi dốt không biết, bổn đạo thấy vẽ hình như thế, thì hỏi hòm gì nhiều vậy? Sãi dốt nói bướng rằng: Ai chết rồi hồn phải đem cái hòm của mình mà nạp cho vua Tứ điện. Nên chôn hòm nhẹ, dễ nạp, nếu hòm lớn khổ cho vong hồn đẩy không nổi! Bó bảy tấm vạc nhẹ nhàng dễ vác! Ôi, bổn đạo quê cũng nghe theo lời ấy, mà trối với con cháu, sợ chôn hòm lớn! Lưu truyền lời phi lý tới nay! Vì sãi dốt bày nói sàm một chút, để hại kẻ dốt muôn đời! Sao không biết xét cho kỹ vua thứ tư thâu hòm ấy mà làm chi? Mấy muôn triệu hòm chỗ đâu mà để? Vả lại hồn ma mà chuyển vận đồ hữu hình sao đặng, gọi đẩy hòm nạp quách là nghĩa gì? Nếu cực khổ như vầy sau còn gọi kẻ thí hòm được phước có thần lành phò hộ? như vậy một lời nói bậy, tổn đức biết chừng nào? Làm cho kẻ dốt nghe lầm, chôn cất tức tưởi không ấm cúng! Muốn cho kẻ dốt khỏi lầm, nên tôi phải giải cho rành, may người dốt tỉnh lại. Nếu nạp hòm hết, sao lại lấy cốt còn hòm???)
 
Làm các điều dữ mắc những tội, kể ra sau đây:
 
1. Giạ già giạ non, đong nhẹ đong nặng, lòn thăng tráo đấu gian lận, hoặc bán lúa tưới nước, đều bị cối đạp giã, cho chó ăn.
 
2. Cân lận, bị móc lưng treo hoài. Đo lận cũng phạt vậy.
 
3. Không kính người lớn tuổi, già cả, lường gạt giựt của người, vay mượn chẳng trả, du thủ du thực hoang đàng, không giữ bổn phận, háo sắc tà dâm, lấy vợ người, ngoại tình huê nguyện, ngã mặn và tội ăn vụng, say rượu, bài bạc, trùm đĩ nhà chứa điếm, rủa chửi, trù ếm du đãng, chọc ghẹo phá hại người hiền, đổ đồ dơ uế xuống sông, phơi quần áo dơ giọt bóng tam quan là mặt nhựt mặt nguyện, yến sao, hoặc dơ uế mà lên chỗ thờ phượng hoặc vào bếp núc.


Các tội kể trên đó đều xô xuống Tát trì là (huyết ô trì) ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít, phạt ở lâu mau.  (Ấy là chánh kinh Ngọc lịch như vậy, kẻ sau muốn răn phụ nữ, bày ra kinh huyết hồn, mà cấm sự nhơ uế nơi tam quan, hoặc giặt dưới sông, hoặc vào trong bếp mà dạy đờn bà con gái. Kẻ dốt tin thiệt có tụng thì khỏi đoạ huyết ô trì. Kẻ dốt nữa thích nghĩa rằng: con gái đàn bà có đường kinh, hoặc chửa đẻ, đều bị xuống huyết ô trì hết thảy, nên có kẻ quê tụng kinh huyết hồn cầu mẹ khỏi tội! Lưu truyền lâu đời, đàn ông ít học cũng tụng nữa! Sao không thông lý, tại trời sanh phụ nữ phải có sự ấy, mà còn bị tội là nghĩa gì? Thầy chùa xưa có học, thông hiểu chỗ đó, bày đặt thơ Hứa sử nói nhờ Hứa sử xin vua Tử điện tha tội ấy. Nói vậy trời đất còn lầm sao? Thua Hứa sử sao?) 


Ngũ quan vương ở dưới đáy biển đông, nội cõi ấy rộng năm trăm dặm do tuần 1 dặm do tuần tròn giáp vòng 240 dặm, bề ngang mặt băng gian, là ngang giữa trung tâm 80 dặm. Còn mỗi dặm là 360 bộ, bộ là bước đôi, mỗi chưn một bước, nên một bộ là 5 thước mộc, như vậy 1 dặm là 1800 thước mộc. Còn 1 dặm do tuần bề ngang xuyên tâm đo 80 dặm là 144.080 thước mộc. Như vậy 580 dặm do tuần giáp vòng đo ra 72.000.000 thước mộc bề ngang mặt xuyên tâm 24.000.000 thước mộc. Lập 16 ngục nhỏ: 

1. Ngục Tát trì là huyết ô trì.
 
2. Ngục Vụ liêng trước tim, xiềng, với tâm để xăm.
 
3. Ngục Phi thanh kiên thủ, xối nước sôi
 
4. Ngục Chưởng trướng lưu dịch, vả mặt sưng.
 
5. Ngục Đoạn cân tích cốt, chặt gân xương
 
6. Ngục Yễn kiên sát bì, khứa vai lột da.
 
7. Ngục Đoan phu, khoan da thịt
 
8. Ngục Tổn phong núi chim trĩ mổ.
 
9. Ngục Thiết y, bận áo sắt
 
10. Ngục Mộng thạch thổ ngoa yễm, cây, lá dẳn.
 
11. Ngục Lục nhãn, khoét mắt.
 
12. Ngục Phi khôi tắc khẩu, tro vô lấp miệng.
 
13. Ngục Quán dược, đổ thuốc độc.
 
14. Ngục Du đậu hượt diệt, trợt nhớt té,
 
15. Ngục Thích chỉ, xâm miệng.
 
16. Ngục Tốt thạch mai thân, chôn đá vụn.
 

Những tội trốn xâu lậu thuế; nói ngược lúa ruộng, nói ngược nợ, cân ăn gian; bán thuốc giả; bán gạo mắc nước; làm bạc giả, ăn gian ăn bớt bạc vàng; bán hàng lụa nhiễu; bán vải mỏng mà hồ gọi dày, đi đường không nhường tránh kẻ tật nguyền, hoặc người già, trẻ nhỏ nhít; lập mưu thần mà đoạt nghề kẻ buôn gánh bán bưng, cho mất sở làm ăn kẻ cùng khổ mà thủ lợi; lãnh thơ không đưa cho sớm, để trễ hư việc người; ăn cắp cạy gạch lề lộ, hoặc rót trộm dầu đèn ngoài đường; nghèo không giữ bổn phận, sanh ra gian giảo, giàu bất nhơn, không thương kẻ nghèo, hứa cho mượn cho vay, đến kỳ không cho, hại hư việc người; thấy người nghèo bịnh, trong nhà có thuốc hay mà không cho; giấu phương thuốc hay, sắc ra bán thuốc nước không cho thấy xác, không chịu truyền cho ai; quăng miểng sành miểng chai, gai chông ra đường đi; thả súc vật ỉa dơ đường sá; để bụi gai góc sầm uất cho hư vách rào của người; trù rủa ếm đối, hăm hoạ chúng; các tội ấy đều tuỳ nặng nhẹ hành tội các ngục, giải qua Ngũ điện.
 

Ngày vía trẫm 18 tháng hai, nếu ai ăn năn ngày ấy ăn chay thề nguyền không dám phạm các tội ấy nữa, lo làm lành tu bỉ sau khỏi hành các ngục nầy, nếu thêm việc nhơn quả kể sau Ngọc lịch để cho người coi mà cải ác tùng thiện, người ăn năn chừa lỗi khỏi tội thì có công có phước.
 

Nếu thấy ai bị tai nạn ngặt nghèo, mình có thể cứu mà làm hiểm bỏ qua, hoặc quên ơn bạc nghĩa hoặc cố oán quyết hại cho đặng, đều là lòng độc ác: tuy tụng kinh làm lành bố thí thác rồi khỏi hành các ngục mà thôi, chớ không đặng đầu thai hưởng phước phạt làm quỉ mị yêu tinh, như hồ ly mãng xà, mấy năm, tuỳ theo lòng độc nhẹ nặng. Nếu biết lỗi không dám sanh sự hại đời, thì thâu hồn về cho đầu thai phú quý. Như hiện hình nhát chúng khuấy đời, đáng tội thì bị Thiên lôi đánh hoá ra con Tích, thì hết đầu thai lâu tiêu hồn mất.
 

Phàm các quân binh đánh giặc, kể từ ngày đi đánh, hết lòng hết sức vì nước, không hãm hiếp ai, không đốt nhà dân giả; dầu tử trận hồn xuống điện này, dẫu có các tội xưa cũng bỏ qua hết, vì đặng chữ trung lương mà trừ, giải đến cửa thứ mười, cho đầu thai hưởng phước. Nếu đánh lộn sanh tử mà chết, hoặc theo kẻ làm phản, đều bị tội gia bội hành hình theo các lỗi bấy lâu.
 


VUA DIÊM-LA NGỰ ĐIỆN THỨ NĂM 

Làm các điều lành được phước:
 

1. Nhiều năm bố thí dân nghèo, con cháu nối đời, giàu có
 
2. Thí lúa gạo, cơm cháo, con cháu thi đậu làm quan lớn.
 

Làm các điều dữ mắc hành tội:
 

1.  Tội bất hiếu với ông bà cha mẹ, bị chém ngang lưng đứt hai.
 
2.  Đổ cơm cháo đồ ăn, bỏ cơm cháy, đạp cơm cháo, đổ huỷ lúa gạo, đều mang gông, cho ăn cơm thiu hóa giòi lửa.
 
3.  Mỗi người có tội, cho lên đài vọng hương, ngó về xứ sở nhà cửa, thương nhớ mà về không đặng, khóc than thảm thiết.
 

Vua Diêm-la phán rằng: "Khi trước trẫm ở Nhứt -điện, bởi thương những kẻ thác oan, hay thả hồn về sống lại để kêu oan. Thượng -đế đổi trẫm về Ngũ -điện tại đáy biển đông bắc, cai trị 16 cửa ngục tru tâm làm mổ trái tim. Phàm các phạm hồn giải đến đây, thì đã bị hành các ngục mấy điện kia lâu ngày, dầu tội nhẹ khỏi hành, song cứ giải bảy ngày mới tới một cửa điện tới đây cũng đã 35 ngày rồi, thây thúi hết, không thể nào sống lại đặng. Nhiều phạm hồn muốn sống lại, kiếm
 tâu rằng: "Tôi làm chưa rồi lời vái hoặc cất chùa làm cầu đắp lộ, khai kinh đào giếng thí chưa rồi, hoặc đặt lời khuyến thiện chưa đủ, hoặc lời nguyện phóng sanh chưa đủ số, hoặc nuôi ông bà cha mẹ chưa rồi, sắm sửa hàn rương chưa đủ, hoặc trả ơn chưa đặng xin cho sống lại thề làm duyên làm phước. Trẫm than rằng: Xưa người làm dữ quỉ thần hay, nay thuyền đã ra khơi xảm muộn quá! Bởi vậy Địa -Tạng -Vương ban ơn truyền chỉ, khuyên các cửa điện chung làm Ngọc -lịch cho đời tu mà chuộc tội. Thập vương làm rồi, dâng cho Địa -Tạng -Vương ngự xem, xem đủ liền đem thập vương với chư thần lên thiên đình dưng Ngọc -lịch xin sắc chỉ của Thượng -đế, nhờ ơn Thượng -đế ngự duyệt bằng lòng ban chỉ cho truyền đời tu chuộc tội. Từ Phong Đô đại đế với Thập vương lãnh Ngọc lịch có chiếu chỉ Thượng -đế phê đến nay đã lâu năm, mà chưa gặp người nào có đức hạnh xuống âm phủ, mà trao cuốn Ngọc -lịch đặng lưu truyền cho đời, chớ hồn mà hồi đương đem kinh có hình về sao đặng? Nếu truyền đặng cho đời biết ăn năn chừa lỗi, thì dưới âm phủ sẽ ít hồn tù tội, tại dương gian ít kẻ thán oán. Như vậy đủ biết trên đời không kẻ tu luyện cho đặng nhục thân (xác phàm) xuống âm phủ. (Trừ ra thân mgoại hữu thân thì đi mới đặng ). 

Từ đó đến nay các hồn soi Nghiệt cảnh đều là người dữ mới giải lần đến cửa này, đừng kiếm cớ chữa mình nhiều chuyện. Quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúng nó lên đài Vọng hương cho mau." Cái đài Vọng hương nhiều cửa vòng nguyệt, hình đài ấy như cái cung lên thẳng dây, giáp vòng 81 dậm, bề dài về hướng bắc, ngay như dây cung , còn đông, tây, nam, ba hướng trước với hai bên đều vòng tròn như cái cung, cao 490 thước, gươm giáo dựng làm chông xung quanh mặt thành, 63 từng rộng rãi. Kẻ hiền lành không lên đài ấy. Kẻ tầm thường công qúa bằng nhau, cũng khỏi lên, được đầu thai. Trừ ra phạm tội nhiều, trừ hết công, còn dư quá, mới cho lên đó. Nghĩa vọng hương là ngó mong về thấy nhà cửa quê hương mình, cho thấy cho nghe đặng biết việc ra thể nào. Các hồn ngó thấy những là người nàh không y theo lời mình trối, cãi các lời dạy, hoặc chuyên vận hết của mình, hoặc chồng cưới vợ khác, vợ lấy chồng khác, hoặc con cháu kiện chia gia sản ruộng đất, sổ sách giấy tờ bấy lâu, bây giờ xé hết.
 

Giấy tờ thiếu nợ họ đòi không đúng. Còn kẻ thiếu mình mượn mình, không giấy, hoặc người nhà kiếm không đặng giấy thì bị chúng nói ngược hết, cãi lẩy với nhau, đều đổ thừa trả rồi cho mình (người chết)! Bà con hờn giận rầy rà, con cái giấu đút, bằng hữu nói tước. Có kẻ nghĩ tình khóc một tiếng, rồi cười bằng hai! Lại còn mấy kẻ tội dữ, thấy con trai bị tù tội, vợ bịnh hoạn, con gái bị chúng hãm hiếp, hoặc sự nghiệp tiêu điều, hoặc cháy nhà, hoặc hết của! Các hồn thấy việc như vậy tức tối mà khóc nhào! Quỉ sứ dẫn xuống, giam vào khám lớn, tra coi phạm tội gì thì dẫn vào 16 ngục tru tâm mà mổ ruột. Mỗi cái ngục đều trồng một cây trụ, rắn bằng đồng làm lòi tói, chó hình bằng sắt làm ghế đôn. Trói hết tay chưn vào trụ, rồi lấy dao nhỏ mổ bụng kéo tim, xẻ lần cắt bỏ cho rắn ăn. Rồi rút ruột cắt bỏ cho chó ăn, hành đủ ngày giờ mãn tội rồi, huờn hình như thường, giải qua Lục điện. Mười sáu ngục kể ra:
 


1. Ngục mổ tim không tin báo ứng.
 
2. Ngục mổ tim sát sanh hại mạng.
 
3. Ngục mổ tim bỏ phải mà làm quấy.
 
4. Nguc mổ tim làm dữ tập phép trường sanh
 
5. Ngục mổ tim khi lành muốn người mau chết.
 
6. Ngục mổ tim toan mưu vu vạ (hoạ).
 
7. Ngục mổ tim trai gian dâm, gái ngoại tình.
 
8. Ngục mổ tim tốn của người lợi cho mình.
 
9. Ngục mổ tim gắt gao không kể ai chết.
 
10. Ngục mổ tim trộm cắp nói ngược.
 
11. Ngục mổ tim quên ơn báo thù quá.
 
12. Ngục mổ tim độc ác xui hại người.
 
13. Ngục mổ tim lường gạt dỗ dành.
 
14. Ngục mổ tim háo thắng, ham đánh lộn.
 
15. Ngục mổ tim ganh hiền ghét ngõ.
 
16. Ngục mổ tim ngu mê không tỉnh kiêu ngạo.
 

Những tội không tin Thiên đường Địa ngục luân hồi, quả báo; ngăn trở kẻ làm sự lành; mượn tiếng đi chùa dòm hành sự lỗi của người mà nói: đốt hủy kinh sách; ăn mặn mà tụng kinh niệm Phật; thấy người ăn chay tụng kinh niệm chú mà chê: chê bai tiên Phật; kẻ hay chữ coi kinh sách mà không giảng cho kẻ dốt phụ nữ nghe: cuốc phá mã hoang, làm cho loạn lạc; vô cớ đốt rừng: để người nhà lơ đểnh làm cháy nhà, hại lây cả xóm; hay bắn cầm thú; vật kẻ yếu bịnh; quăng liệng phá người: đăng dò bắt cá; chày lưới các cuộc bắt cá; gát chim. (Lấy mủ cây làm cho dính giò bẫy, các đồ lề bất chim, hoặc đổ thuốc độc dưới đất); những mèo chết, rắn độc chết không chôn cho sâu, hại người đào nhằm móc nhằm trúng độc khí bịnh chết: trời lạnh run mà bắt dân đào đất dầm nước đặng làm vách đắp lò bếp mới; lấy thế cất dinh quan, lấn ranh chiếm đoạt ruộng đất dân, lấp giếng bí ngọn rạch (thuộc về ỷ thế); các tội kể trên đó, những kẻ phạm tội ấy, cho lên Vọng hương coi rồi, giam vào khám lớn, tùy theo tội mà mổ tim, mới giải qua Luc -điện tra tội khác. Nếu cơn còn sống không phạm các tội ấy, hoặc đã phạm lỡ, ngày vía trẫm là ngày mùng tám tháng giêng, mà ăn chay thề nguyền không tái phạm các tội ấy nữa, sau trẫm tha hỏi hành, lại tư tờ qua Lục -điện giải tội nữa. Trừ ra tội sát nhơn, hoặc theo tà thuật, xưng đặng trường sanh: hoặc hãm hiếp phụ nữ; hoặc đàn bà tham dâm ghen độc: hoặc vu oan cho hư danh tiết người; hoặc trộm cướp nói ngược; hoặc trộm cướp nói ngược; hoặc quên ơn bạc ngãi, báo oán quá lẽ; nhứt là nghe kinh khuyên giảng mà không ăn năn chừa lỗi! Các tội ấy chẳng hề châm chế.
 


Còn người đời, gọi tài thần giữ của cho người, tưởng vậy là sái lắm! Ấy là mấy người chôn tiền bạc của cải hoặc các quan chôn của báu, đến thác phần hồn còn mê mà tiếc của, sợ chúng đào, nên hồn ma ở đó giữ mãi, ai tới thì hiện hồn ma mà nhát. Thần thánh nghĩ nó vô tội, nên bỏ qua cho ma giữ của. Chừng nào nghe câu kinh Phật dạy:' Cái thân cũng không phải của mình, ngũ uẫn (năm mối) là tham. sân, si, ái dục, đều không '. Hồn ma giữ của mới tỉnh lại rằng:'Cái thân là xác còn bỏ, không phải của mình mà dùng được, huống chi là của tiền '. Mới chịu bỏ của mà xin đầu thai kiếp khác. Còn mấy kẻ vô phước lại gần chỗ đó bị ma nhát mà hết hồn sanh bịnh. Như thế -gian ai nghe chỗ nào có ma quỉ hiện hình hay nhát, biết là chỗ ma giữ của, thì van vái thề nguyền, xin đào đặng của ấy thì chia ra như vầy: 10 phần xuất ra ba phần mà làm siêu độ tụng kinh cho hồn ấy đầu thai hưởng phước, ba phần nữa phóng sanh cho vong ấy, một phần bố thí cho bần nhơn thì hết 7 phần rồi, còn ba phần thì mình hưởng. Vái nguyện như vậy rồi đào, thì có thánh thần làm chứng, lấy làm như vậy không hệ gì, 


VUA BIỆN THÀNH NGỰ CỬA ĐỀN THỨ SÁU 

Làm lành được phước:
 

Cất chùa, tu bổ am tự con cháu thi đậu làm quan.
 

Làm các điều dữ mắc tội:
 

1. Vừa lúa đợi giá cao, nhà nghèo mua ít không bán; quá phòng người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi, mà theo họ cũ; hoặc cạo vàng trong mình Phật cốt mà bán, cũng như bán Phật; các tội ấy đều bị đóng đinh căng lút vô bàn chông đứng.
 
2. Ăn cắp kinh sách, hoặc mua mà xé, bị treo mà lột da.
 
3. Kêu trời van đất, không cung kính thánh thần, bị cưa ngược.
 
4. Ăn trộm, ăn cắp, bị quì trên chông sắt luôn luôn.
 
Biện thành vương, điện tại đáy biển chánh bắc, khám lớn gọi là Đại hiến đoán, địa ngục rông 500 dặm do tuần, 16 ngục nhỏ:
 
1. Ngục thường quị thiết sa, quì chông.
 
2. Ngục chi nê tẩm thân, hầm phẩn.
 
3. Ngục mạ tồi lưu huyết, xay bột.
 
4. Ngục kiềm chỉ hàm châm, ngậm kim.
 
5. Ngục cát hận thử giảo, thiến dái cho chuột ăn
 
6. Ngục cực võng hoàn toàn, đĩa cắn trong lưới gan
 
7. Ngục ngối đão nhục tương quết nem.
 
8. Ngục liệt bì khí lôi, nghiến rách da.
 
9. Ngục hàm hỏa bế hầu, ngậm lửa.
 
10. Ngục tang hỏa bại hông, thổi lửa đốt (lửa giân).
 
11. Ngục phẩn tự, rạch phẩn.
 
12. Ngục ngưu điêu mả táo, trâu báng ngựa đạp.
 
13. Ngục phỉ khiếu, khoan lỗ (xoi).
 
14. Ngục trát đầu thoát xác, bửa sọ.
 
15. Ngục yêu trảm, xắt ngang lưng.
 
16. Ngục bác bì, tuyên thảo, lột da, đóng chông đứng.
 


Phàm giận trời trách đất, ghét gió sấm lạnh nực nắng mưa; day mặt về hướng bắc mà tiểu tiêu, hĩ mũi, khạc phun, khoét, cạo vàng hình Phật, móc tiền dằn tâm ông Tiêu; kêu tên tộc Tiên Phật thánh thần; không kỉnh giấy chữ kinh sách; để đồ dơ uế gần chùa đình, bàn thờ: hương đăng trà quả, đồ cúng không, tinh khiết; dơ dáy trong bếp, không cữ thịt trâu, thịt chó, học sách tà dâm (thể chiến), tà đạo, để sách ấy trong nhà mà không đốt, sách ếm hại người cũng vậy, bôi xé kinh sách, đồ khí dụng. vẽ hình Thái -cực (mặt trăng lộn âm dương), hoặc vẽ nhựt nguyệt sao bắc đẩu, hoặc hai hình hoà hiệp (nguyệt hiệp lão nhơn), hoặc hình Tây-vương-mẫu (Diêu trì), hình Phước Lộc Thọ, hoặc hình Bát -tiên, mà làm nhãn gói đồ, hoặc thêu chữ (Vạn) vô hàng giẻ vải cờ, giường, ghế, bàn tơ và đồ khí dụng, hoặc dùng làm chữ hiệu, phạm thượng bận quần áo có hình rồng phụng, vựa lúa chờ giá cao không bán ít cho nhà nghèo: các tội kể trên đó, đều giam vào khám Đại -kiếu -hoán. Tra tội nào đáng hành 16 ngục nhỏ, đủ ngày giải qua Thất -điện, tra tội khác hành nữa. 

Nếu ai ở dương thế, ăn chay ngày mồng tám, tháng ba là vía trẫm, thề nguyền tự hậu không dám phạm tội nói trên đó, và 14 rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng 10 tháng mười, trong bốn ngày ấy ăn chay, cấm phòng, (vợ chồng không ăn nằm với nhau) cũng như các ngày vía lớn vậy, lo cầu khẩn ăn năn chừa lỗi thường năm giữ được năm ngày ấy như vậy, sau khỏi hành các ngục nầy. 

Thế tục lưu truyền nói:'Thập bát tằng địa ngục '. Dưới Âm -phủ có 18 từng địa ngục, ấy là nói sái, chánh là:' Nhập bát tằng địa ngục '. Vào tám cửa địa ngục lớn. Kể tám ngục lớn ra sau đây: Nhị điện có khám lớn gọi là Huợt đại địa ngục. Tam điện có Hắc thằng đại địa ngục. Tứ điện có Hiệp đại địa ngục. Ngũ điện có Kiếu -hoán đại địa ngục. Tại Lục điện đây có Đại Kiếu hoán đại địa ngục. Thất điện có Nhiệt não đại địa ngục. Bát điện có Đại Nhiệt não đại địa ngục. Cửu điện A tì đại địa ngục. Cộng tám cái khám lớn, mỗi khám lớn đều có 16 địa ngục nhỏ để hành tội và Huyết ô trì, Uổng tử thành, cộng vừa lớn vừa nhỏ 138 địa ngục; lại còn bào lạc rằng khác. Phàm các phạm bị hành rồi, tuy cháy da nát thịt, đứt gân, dập xương, không còn lông tóc, chừng giải qua điện khác huờn hình lại như khi mới chết mà hành hình nữa, rồi giải qua cửa khác cũng như vậy.Trẩm thích nghĩa cho rành, kẻo tưởng có 18 địa ngục. Nhứt là tội đặt bài ca huê nguyệt, tuồng truyện tà dâm, hoặc vẽ hình tục tĩu, hoặc làm thuốc phá thai, hoặc thuốc mê, hay là khắc bản in ra, hoặc sao tả lưu truyền các bài các hình ấy, nếu bản ấy còn, bổn còn không tuyệt đồ đó, thì người bày đặt còn bị hành tội hoài, dẫu muôn ngàn đời cũng không khỏi hình phạt nơi địa ngục vì bày tà dâm dục lòng người cho hư phong hoá.


VUA THÁI -SAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ BẢY 

Làm lành hưởng phước:
 

Phàm con có hiếu, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, kính yêu mười phần. Khi nuôi đau càng hầu hạ thức thối cần mẫn hơn nữa, đến nỗi cha mẹ bịnh liệt, ăn không được có khi đặt bàn cầu trời, mình lóc chút thịt cánh tay, mà nấu ra nước cho cha mẹ uống cầm hơi. Ấy là lời nói thí dụ tỏ lòng thương hết sức chạy lo như vậy. Có hiếu thì động lòng trời.
 

Làm các điều dữ mắc tội:
 

1. Ăn trộm đồ trong hòm, hoặc bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa.
 
2. Sang đoạt, hoặc dỗ dành gạt chúng, bị ngục trảm thủ (chặt tay).
 
3. Lấy xương người mà làm thuốc, bị nấu dầu.
 

Đền thái -san vương tại đáy biển tây-bắc, khám Nhiệt -não đại địa ngục giáp vòng 500 dậm do tuần, có 16 ngục nhỏ. 
1. Ngục chày nục tự thôn, đánh sặc máu bắt nuốt!
 
2. Ngục thềm thối hỏa bức khanh, hầm lửa.
 
3. Ngục liệt hung, bửa ngực.
 
4. Ngục nha xa ngoạn phát, cột tóc trên nạng.
 
5. Ngục khuyển giảo kinh cốt, chó cắn cẳng.
 
6. Ngục đảnh thạch tồn thân đội đá.
 
7. Ngục lả đảnh khai ngạch, đập óc xả trán.
 
8. Ngục úc thống khốc cẩu đôn, chó cắn.
 
9. Ngục lê bì trư tha (trư đà), lột da, heo cắn mà trì.
 
10. Ngục đoạn hảo thượng hạ trác giảo, trên chim
 
lắc nước mổ, dưới heo rừng xé.
 
11. Ngục điếu đạp túc, treo cẳng.
 
12. Ngục bạt thiệt xuyên tai, kéo lưỡi xỏ má.
 
13. Ngục sưu trường, rút ruột.
 
14. Ngục loa đạp hoa trước, la đạp, heo rừng cẳn.
 
15. Ngục lạc thủ chỉ, đốt ngón tay.
 
16. Ngục du phủ cổn phanh, nấu dấu.
 

Nếu ai có uống hồng diên (kinh nguyệt lần vỏ da, thứ nhứt) 
tử hà xa nhau (nhau); hoặc uống rượu phí dụng thái quá; mua đồ trong hòm người chết; hoặc lấy xương cốt người mà làm thuốc: phân rẽ vợ chồng, thân thích người; gả dâu làm thiếp , hoặc đợ; để cho vợ trấn nước con gái: hoặc chửa hoang đẻ ra liền ủ; bài bạc đánh môn đánh cặp chia tiền của, hoặc gian lận; thầy không cần dạy để đệ -tử hư: không cần tội nặng nhẹ, cứ chửi tôi đánh tớ tới bị thương tích: hà hiếp xóm diềng: không kính người lớn hơn mình, dạy phải chẳng vâng lời: khua môi uốn lưỡi, xúi rầy đánh lộn; các tội ấy tùy nhẹ nặng hành hình đủ 16 ngục. Hành đủ rồi, giải qua Bát điện tra tội khác nữa.
 

Trong đời thiếu chi vị thuốc, nỡ nào giết vật sống mà làm thuốc, trị bịnh thiệt ở bất nhơn. Còn như uống hồng diên, nhau rún đồ dơ trong mình đàn bà, như ăn thịt người, thì cái miệng cũng như một thứ uế trược kia dẫu có làm lành tụng kinh niệm chú đã không linh, mà càng thêm tội, nên án ấy không dung. Nếu ai nghe khuyên nầy, mau mau chừa lỗi, nguyện cữ sát sanh, lại phóng sanh được một trăm vạn mạng mỗi ban mai súc miệng niệm Phật cho nhiều, đến khi mãn phần, Phật sai Tịnh nghiệt sứ giả đem đèn soi cho tiêu hơi uế mới đặng. 

Nếu ai lấy xương cốt kẻ chết thiêu, hoặc thây con nít chết mà làm thuốc, hoặc lấy sọ người bán mà làm vị thuốc có kẻ ác kiếm xương người tới cả gánh, chắc thì làm đồ khí dụng, mục thì tán ra bột pha đồ. Hầm các vật dụng thì dầu có công gì, trừ cũng không đặng, thà hành tội ấy công nọ để trừ tội khác, dư sẽ cho hưởng kiếp sau. Còn bây giờ hành các ngục rồi, rốt giải qua vua thứ mười đặng cắt tay khoét mắt, chặt tay chưn, hớt môi miệng mũi, đầu thai làm kẻ tật nguyền, thậm chí hai tật mà trừ tội ấy. Nếu ai còn sống biết tội, phải thề nguyền ăn năn, không dám phạm nữa, hoặc phải thí hòm mà đi liệm thí nhiều xác, sau chết đeo đính bài, trên đính bài ông Táo có chấm một điểm mực làm dấu, xuống đây mới khỏi hành hình. 
Có năm thất mùa đói lắm, tới nỗi kẻ sống đói quá ăn thịt thây ma. Nếu ai ngất ngư hấp hối còn chút hơi thở mà nỡ lòng cắt thịt nấu ăn, hoặc làm nhưn bánh bao, bánh in mà bán cho người ăn, ở lòng độc như vậy bị hành xây vần 16 cửa ngục nầy đủ 49 ngày, thì cho Thập -điện ghi vào sổ, rồi chạy tờ cho Nhứt điện đem tên vào bộ nữa, cho đầu thai lên làm súc vật chết đói, cho thấy đồ đổ trước mắt mà nuốt không vô, phải chịu đói tới chết.Tội này không phước nào trừ được, cũng không đặng đầu thai làm người mà trả quả. Còn kẻ ăn lầm, biết rồi mà còn ăn nữa, phạt đầu thai làm súc vật sưng họng đói lắm mà ăn không đặng, nhịn cho tới chết. Nếu biết lầm mà không ăn nữa, thì chế cho bố thí năm đói mà trừ (như thí lúa gạo tiền bạc cơm cháo hoặc nước gừng, nước trà), được như vậy đã tiêu hết tội trước, lại trả phước nhãn tiền và kiếp sau.
 

Ba điều trên ấy là quan văn, quan võ với các phán quan điện nầy hội nghị hai điều, còn Địa -ngục thứ tư (chúa ngục) nghị một điều, là ba điều, trẫm cũng cho viết theo sau, dưng Thượng đế, nhờ ân chỉ phê cho và thăng thưởng các viên hội nghị. 
Lại truyền chỉ dụ: Thế gian làm điều dữ, chư thần đã nghị tội hành phạt rồi.
 
Hỡi còn việc quân lính, việc công vụ, lễ nghị, chế riêng điều lệ nhỏ, các khoảng ấy điều y thao luật của nước nào chế, thì trị theo luật nước nấy. Nếu chúng nó chối mà đổ tội cho kẻ khác, tức thì phải tra minh mà trị tội y luật. Các cửa âm ti y chỉ dụ '.
 
27 tháng ba nhằm ngày vía trẫm, ai ăn chay day mặt lạy về phía bắc, thề nguyền ăn năn chừa lỗi, làm lành in cuốn Ngọc -lịch cho đời coi mà cải ác, sau khỏi hành các ngục nầy '.
 

VUA BÌNH -ĐẲNG NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TÁM 

Làm lành hưởng phước:
 

Kẻ giàu có trai tăng bố thí cho thầy tu, được phước lộc.
 

Làm các điều dữ mắc tội:
 

1. Bất hiếu, cha mẹ sống không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc hồi cha mẹ còn sống làm cho cha mẹ ưu phiền bất bình, hoặc làm điều phạm phép, cho cha mẹ kinh hãi, đều bị xe cán.
 
2. Ở quấy với người ơn của mình, hoặc chắp cây chiết chi, đem nhánh nầy chắp qua gốc cây kia, đều bị xắt ngang lưng.
 
3. Nói tục -tĩu về việc phụ nữ, bị kéo lưỡi mà cắt.
 
4. Khi người nghèo, dua bợ giàu sang bị mổ bụng móc tim.
 

Ngục nầy có thành Uổng tử để giam hồn tự tận (giết mình).  Bình Đẳng vương đền tại đáy biển chánh tây, khám lớn là Đại Nhiệt não đại địa ngục, rộng 500 dặm do tuần, có 16 ngục nhỏ: 
1. Ngục xa băng, xe cán.
 
2. Ngục mộng hoa, chảo đậy ngột.
 
3. Ngục tối quả, lóc thịt tận xương.
 
4. Ngục lao khổng, bóp mũi, bóp họng.
 
5. Ngục tiển thiệp, hớt chót lưỡi.
 
6. Ngục thường thinh, nhà tiêu.
 
7. Ngục đoạn chi, chặt tay chơn.
 
8. Ngục tiền tạng, nấu đồ lòng.
 
9. Ngục chích tủy, nướng mỡ xương.
 
10. Ngục bát trường, móc ruột.
 
11. Ngục phần tiêu, đốt trái thận.
 
12. Ngục khai đường, mổ ức.
 
13. Ngục hoạch hung, sả ngực.
 
14. Ngục phá đảnh náo xỉ, bửa đầu xeo răng.
 
15. Ngục phê cát, bằm xắt.
 
16. Ngục cang xa, chĩa sắt đâm.
 

Những con bất hiếu, cha mẹ còn không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc làm cho cha mẹ hay là cha mẹ chồng hết hồn, giựt mình, phiền hờn, rầu buồn, nếu không ăn năn chừa lỗi, ông Táo ghi vào sổ tội thứ nhứt tâu Thiên -tào cho bớt lộc bớt tuổi, cho tà quỉ làm điên khùng, thác rồi còn bị hành hình các ngục khác, giải đến cửa nầy ngưu đầu mã diện xách giò quăng vô khám lớn, rồi dẫn lại các ngục nhỏ hành hình cho đến kiếp, mới giải qua cửa thứ mười cho đầu thai làm súc vật. Nếu ai thấy Ngọc lịch mà tin, mỗi năm vía trẫm là ngày mồng một tháng tư, ăn chay thề nguyền chừa tội lỗi, sớm tối nguyện với ông Táo, xin ăn năn chừa lỗi, đến mãn phần ông Táo đề chữ Tuân trên trán, hoặc chữ Thuận, chữ Cải dầu hồn xuống từ Nhứt điện đến Thất điện có tội chi khác đều giảm phân nửa và khỏi phải giải qua điện nầy, đi luôn qua Cửa điện tra có đốt nhà, hoặc tính mưu thầm hay không. Rồi giải qua Thập điện cho đầu thai làm người tử tế.
 

Thượng đế có chỉ dụ: "Nếu ai ăn năn chừa lỗi, in Ngọc lịch cho thiên hạ coi mà hồi tâm, thì sau thác xuống đi luôn từ Nhứt điện thẳng tới Bát điện khỏi hành các ngục. Tới cửa điện tra tội phước nếu không tội thì giao qua Thập điện cho đầu thai nhà giàu sang mà hưởng phước lâu dài."
 

Còn Huyết ô trì phía sau điện, mé bên tả. Sãi vãi tại thế gian giảng sái rằng: "Đàn bà sanh đẻ có tội, sau bị sa Huyết ô trì". Ấy là nói sai lắm! Sự đó tại trời sanh còn làm tội là nghĩa gì, dầu đàn bà đẻ mà thác, cũng không tội nhơ uế chi hết. Tội là vầy: Đẻ chưa đầy tháng mà xách nước, lội sông, vô bếp, giặt quần áo dơ, phơi hứng tam quang, các tội ấy về chủ nhà (người lớn trong nhà) chịu ba phần còn bảy phần đích thân nàng ấy chịu. Ao Huyết ô để phạt gái dâm dục sau bàn Phật, trước chỗ thờ thần, hoặc không cữ giao hiệp bốn ngày kị nhụt thần trong mỗi năm, là 14, rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng mười tháng mười, nội bốn ngày đêm ấy, mà ăn nằm thì tại dương thế đã mang bịnh, hoặc chết rắp, hồn xuống đây còn bị lăn lội dưới ao ấy lâu ngày. Hoặc sát sanh vấy máu trong bếp, hoặc bàn thờ, hoặc vấy máu vô kinh sách, hoặc đồ đựng cúng tế, cũng bị sa Huyết ô trì. Trừ ra có người thân nguyện cữ sát sanh lại phóng sanh cho vong hồn, lạy Phật tụng kinh cầu mới khỏi.
 


VUA ĐÔ THỊ NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ CHÍN 

Làm các điều lành được hưởng phước:
 

1- Mùa đông thì nước gừng, mùa hè thì trà nước, có phước.
 
2- Đưa đò thí, con cháu thi đỗ hiễn vinh.
 

Làm các điều dữ mắc tội:
 

1- Đi tới tiền làm chùa sửa chùa quan thếp Phật, mà ăn gian, hoặc rủ người đậu tiền khắc bản kinh, hoặc in kinh, ăn gian, hoặc bán mà thủ lợi, đều bị quăng trên núi cao.
 

2- Bắt ếch, nhái, lươn cá, thuốc cá, bắt chim, ăn thịt trâu chó ngựa, hay sát sanh bắt rùa rắn, vô cớ mà hại vật, đều bị quạ xé thây ăn gan tim, rắn đục tai, niệng mũi.
 

3- Phân vợ rẽ chồng người, nói đâm thọc cho ruột thịt xa nhạu Vẽ hình tục tĩu, làm thuốc tráng cho tà dậm. Hoặc đặt đồ huê tình, hoa-nguyệt cho sanh thói dâm. Hoặc đập chó. Các tội ấy đều bị chó vật chết, xé thây ăn thịt tim phổi.
 

Đô thị vương đền tại đáy biển tây nam, khám lớn là A tì đại địa ngục, rông 8 trăm dặm do tuần đều bao lưới sắt, lập riêng 16 địa ngục nhỏ:
 

1- Ngục xao cốt chước thân, đập xương đốt mình.
 
2- Ngục sưn cân lôi cốt, rút gân nghiền xương.
 
3- Ngục nha thực tâm can, quạ ăn tim gan.
 
4- Ngục cẩu thực trường phế, chó ăn ruột phổi.
 
5- Ngục thân tiện nhiệt du, mình, tưới dầu sôi.
 
6- Ngục não cô bạt thiệt, bạt xỉ, nỏ đầu, kéo lưỡi, nhổ răng.
 
7- Ngục thủ não vị điền, con nhím khoét sọ ăn óc.
 
8- Ngục chưng đầu, quái não, nấu dầu, nạo óc.
 
9- Ngục dương súc thành hải, dê cụng bấu.
 
10- Ngục mộc hiệp đảnh, ta nỏ nát sọ.
 
11- Ngục mạ tâm, móc tim mà xay.
 
12- Ngục phị thang tâm thân, trấn nước sôi.
 
13- Ngục huỳnh phong, ong vò vẽ đánh.
 
14- Ngục nghị chú ngao thầm, kiến đục tóp (thắng mỡ ra tóp cho kiến ăn.)
 
15- Ngục yết câu, bồ cạp chích.
 
16- Ngục tử xích độc xà toàn khổng, rắn đỏ độc chun cửu khiếu.
 

Phàm vua thế gian chế luật hình phạt, như tội nặng lắm xử lăng trì (chém rồi xả tư ), xử trảm (chém), xử giảo (thắt họng), hồn xuống chịu các ngục trước hành rồi, giải đến điện nầy, hoặc kẻ đốt nhà, nuôi xâu ngải, thuốc độc, phá thai, hút hơi rún cho bổ, nút tinh trai, hoặc vẽ hình tục tỉu, đặt thơ truyện ca huê nguyệt (thơ ân tình ) hay là bài thuốc mê, thuốc phá thai. Ai có phạm đều, thấy Ngọc -lịch thì ăn năn, thề chừa lỗi, không dám phạm nữa, nếu dâm thơ thì xé não, in rồi thì hủy bản, đốt sách, không truyền phương thuốc tà vạy nữa (thuốc tráng) thì sau xuống đây tha hành các ngục, giao qua Thập điện cho đầu thai làm người. Nếu nghe Ngọc - lịch mà còn làm các tội ấy, thì sau hành từ Nhị điện cho tới đây, đây trước hành bào lạc (xiềng tay chân vô ống cột đồng đốt đỏ, đẩy lên cháy thành than), huờn hồn lại giam vào ngục A tì mà hành theo 16 ngục nhỏ, rồi huờn hồn nữa, đâm gươm vô họng thấu tim phổi, giam hoài đợi các nhà bị hại trên thế gian khá lại, kẻ chết đầu thai hết, hoặc não bổn dâm thơ hết lưu truyền nữa, hoặc phương thuốc độc hết truyền, hoặc kiểu hình tục tĩu tuyệt hết, thì hồn phạm mới khỏi giam đặng đi đầu thai. 

Nếu ai phạm các tội ấy, đến ngày vía trẩm là mồng tám tháng tư, ăn chay, day mặt về hướng bắc, vái nguyện chùa lỗi, mua thâu dâm thơ mà đốt, hoặc in Ngọc -lịch cho người, hết sức khuyên đời cải ác tùng thiện, đến mãn phần, ông Táo đề hai chữ ' Phụng hành trên trán, thì từ Nhị điện đến đây, tra công mà trừ các tội khác. (Nếu kẻ giàu sang có quyền thế cho bắt kẻ hung hoang hay đốt nhà chúng, hoặc cấm dâm thơ, hủy bản đốt sách dán yết thị cấm các việc hại đời ấy, thì cho con cháu nối đời thi đỗ làm quan. Nếu kẻ nghèo, dốt, phụ in Ngọc lịch khuyên đời sau đầu thai hưởng phước. 

Vua Phong đô đại đế phán rằng:' Tay Bát điện có thành Uổng tử, ở phía hữu điện nầy (vì 2 đền gần nhau). Thế tục nói sái rằng:' Ai bị thác oan, thì hồn bị cầm thành Uổng tử '. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không xét cho đủ lý , người đã thác oan, cầm ngục nghĩa là gì? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan trước cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai Còn thành nẩyđể giam những kẻ vô cớ giận lẩy mà giết mình, trầm mình thắt họng, uống thuốc độc vân vân, giam đỡ đây đợi hành tội chưa đặng đầu thai chớ không phải các hồn bị người giết Uổng -tử. Nếu kẻ liều mình vì sự trung hiếu tiết nghĩa, hoặc quân lính vì nước mà tử trận, các bực ấy kẻ đáng thành thần thì hiển thánh, kẻ còn tội lỗi, không đặng thành thần, thì đã cho nguyên hình mà đi đầu thai, có đâu giam cầm thành nầy mà chịu bó buộc thảm khổ hay sao? 

VUA CHUYỂN -LUÂN NGỰ ĐIỆN THỨ MƯỜI 

Làm các điều lành được phước:
 

1. Nhà giàu sang thí kinh lành, hoặc thí Ngọc -lịch phước lớn.
 
2. Tụng kinh, tụng cảm -ứng tu hành niệm Phật, giàu sang sống lâu.
 

Làm các điều dữ mắc tội:
 

1. Hãm hiếp, dụ trẻ thơ mà ăn của, đều bị xay ra bột
 
2. Không kỉnh giấy chữ, rủ ăn trâu, chó, phát làm hành khất
 
3. Không kính người lớn, dạy khuyên điều phải mà chẳng vưng lời, hoặc thầy bảo học trò trọng giấy chữ, đều bị đá đè.
 
4. Không phải cúng ông bà, nuôi cha mẹ mà sát sanh. Hoặc mưu kế lường gạt ăn gian. Bày kiện thưa báo đời. Hoặc nghề võ đánh độc cho người chết. Các tội ấy đi ngang cầu Nại -hà bị té xuống sông cho rắn mãn xà cua đinh ăn thịt.
 

Chuyển -Luận -Vương đền tại đáy biển đông, ngay rún trái đất, có làm cầu bằng vàng, cầu bằng bạc, cầu ngọc, cầu bằng đá, cầu cây (cầu ván) và cầu Nại -hà, cộng sáu cái cầu.Các điện giải hồn đến, xét tội phước cho đầu thai các phương thế gian, định giàu sang hèn khó, sống lâu thác yểu, đều ghi sở rõ ràng mỗi tháng chạy tờ về Nhất điện ghi sổ rồi nạp cho vua Phong đô đại đế. 


Luật Âm phủ, phàm tứ sanh là loài đẻ con, loài đẻ trứng, loài dưới nước, loài biến hoá lộn kiếp, những loài không chân cẳng, hoặc hai giò, 4 chân, nhiều cẳng, các vật ấy chết rồi hoá ra con tích (mà chết một kiếp nữa) xoay vần như cối xay, hoặc số một năm nửa năm, hoặc sớm mai sanh chiều chết, đổi dời biến hoá mạt kiếp, không định số, là loài phải bị giết cho hết kiếp, cho đầu thai các nơi mà trả quả. Mãn năm cũng phải trình sổ ấy cho vua Phong đô đại đế xem. 

Phàm kẻ học nho có đọc kinh Diệc, các sãi, mấy thầy tu có tụng kinh niệm chú, mà phạm tội nhiều quá, tuỳ bắt hồn đến các điện, cũng chưa hành đặng, phải giải đến đền trẫm vẽ hình và biên tên vào sổ Đoạ lạc danh sách. Rồi giao cho Mạnh bà ở đài Ứ Vong, đổ thuốc mê, cho đầu thai chết trong bụng, hoặc sanh ra một đôi ngày mà chết hoặc hơn trăm ngày mà chết, hoặc một hai năm rồi chết, đặng cho quên hết kinh chú, rồi Nhứt điện bắt hồn tra tội mà hành Nếu ai công quả bằng nhau, hoặc dư quá chút đỉnh, thì định cho đầu thai làm trai, làm gái, xấu tốt, khoẻ cực, giàu nghèo, đều giao Mạnh bà cho uống nước mê (lú) rồi mới đầu thai. 

Trẫm hằng kêu tên mà cho đầu thai làm người, nhiều kẻ phụ nữ khóc lạy rằng:' Còn thù lớn chưa trả đặng, nên không muốn đầu thai, thà chịu làm ma đói (ngạ quỉ), Trẫm hỏi rỡ, thì chúng nó kể ra: hoặc con gái đồng trinh hoặc con tiết phụ, bị các trò tốt trai háo sắc, hoặc tham của các nàng ấy, lập kế dỗ dành, làm mặt nhơn nghĩa, nói tiếng ân hậu, mà tư tình cho được; kẻ nói dối chưa vợ, thề sẽ cậy mai đến cưới, hoặc gạt tớ gái, hứa sẽ lập làm thiếp mà lấy chơi phá trinh rồi bỏ, hoặc hứa nuôi mẹ già trọn đời, hoặc hứa nuôi con ghẻ. Các phụ nữ vì tin mà mắc, té ra hết của, thất tiết, mà chẳng đặng chồng! Sao lại bán rao cho cha mẹ anh chị hành hà, xóm giềng đàm tiếu, tức mình hổ thẹn mà liều mình, hoặc tức tối thất tình phát bịnh mà chết! Nay nghe đứa phụ tình đi thi khoa nầy chắc đậu, nên xin ở lại đợi tới khoa mà báo oán đòi mạng, ngặt nó chưa tới số, hoặc phước đức tổ phụ nó còn nhiều, xin cho lên phá nó hồn mê, thi chẳng đậu, hoặc cáo với Văn Xương đế quân phạt nó phải rớt (mới ra sự đổi tên có đứa khác đậu thế) đợi tới số sẽ xin lên vật hồn báo oán, các vụ ấy trẩm tra rõ oan ức, thì cho tờ nó tới Nhứt điện cáo. Nếu ai ăn chay ngày vía trẫm la 17 tháng tư, thề nguyền tin Ngọc lịch mà ở, và đem bài này mà giảng cho các trò nghe mà đặng giữ mình, thì người giảng ấy trọn đời khỏi thủy tai hoả hoạn, khỏi việc qua quan hình phạt. 

Còn sở luân hồi rộng bảy trăm dặm do tuần, trên dưới xung quanh đều có rào sắt và bao lưới phép, chia ra 81 chỗ, mỗi chỗ đều có nhà mát, các phán quan thơ lại, để bàn ghế biên chép. Ngoài rào sắt có 108.000 đường dương trường (nhỏ như ruột con dế) quanh co đi thông lên các nước.Chia ra sáu ngã (lục đạo) luân hồi, loài người có hai: 1. giàu sang, 2. khó hèn, trong ngoài đều sáng. Còn bốn ngã tứ sanh, là: Thai sanh, loài đẻ con (thú bốn cẳng). Noãn sanh, loài đẻ trứng có hai cánh. Thấp sanh, loài ở dưới nước, như cá, tôm cua ốc, rùa, trạnh, lươn, chạch, ếch nhái vân vân. Hoá sanh là loài tằm hóa nhộng, sâu lộn bướm, sùng hoá bồ xè, đuông hóa kiến dương, quăng hoá muỗi, kiến mốc mọc cánh, vân vân. Bốn loài ấy đường ở trong tối đen như sơn, ngó ra ngoài sáng như thủy tinh, như hai ngã loài người vậy. Các phán quan thơ lại kêu tên nhìn mặt rõ ràng cho luân hồi sáu ngã, một mảy không sai. Các phán quan thơ lại, đều là người hiếu đễ, cữ sát sanh, phóng sanh, tu hành, nên phong chức thần, mà coi sở luân hồi ấy. Coi năm năm công bình không sai thì đặng lên chức, nếu trể nải, hoặc lộng quyền, hoặc để tội trốn, thì bị phạt giáng chức, nhỏ thì bị đày.   Phàm kẻ bất hiếu, hoặc sát sanh nhiều quá, bị các ngục hành rồi, giải đến đây, sai quỉ sứ lấy nhánh đào đập chết, hoá ra con tích, cho đội lốt tứ sanh đi đầu thai trả quả.  Phàm cầm thú: cá, loài trùng (tứ sanh), đầu thai muôn ngàn kiếp đã mãn tội, thì loài hóa sanh được làm thấp sanh, thấp sanh trở lại noãn sanh, noãn sanh trở lại thai sanh, ba đời mà không giết hại mạng vật, thì được đầu thai làm người. Tại đây cũng làm sổ, gởi qua Nhứt điện phê, rồi cho uống thuốc mê nơi Mạnh bà, rồi đầu thai lên thế gian các nước. 

LỜI VÃNG SANH CỦA PHẬT 

Trẫm đem vào đây cho đời tỉnh lại.
 
Trên đời hay sát sanh, nên bị đao binh hại:
 
Báo oán giết một thân, thiếu tiền thiêu tới trại.
 
Mình đào hang ổ kia, nó phá vợ con lai.
 
Oan trái trả xảy vần, lóng tai nghe Phật giải:
 
Thịt, mua lừa khúc béo, cá, chắc lựa con tươi.
 
Y phục kén phần nhứt, ruộng vườn chọn vẹn mười.
 
Phóng sanh thì tiếc của, lảng Phí chẳng nhường người.
 

Đến thác tay không nắm, một mình tội mấy mười!
 


MẠNH -BÀ NƯƠNG CON BÀ Ứ -VONG 

Thần Mạnh Bà sanh đời tiền Hán, hồi nhỏ học sách nho
 lớn tụng kinh Phật. Không nhớ sự đã qua, chẳng mơ việc sẽ đến. Cứ lo khuyên người cữ sát sanh và ăn chay như mình. Không chồng tới 81 tuổi, tóc bạc mà mặt còn tơ. Bởi họ Mạnh nên kêu là Mạnh -Bà (bà họ Mạnh). Sau bà lên núi tu tới thành. Qua đời hậu Hán nhiều người biết kiếp trước, nhớ mạy đi nhìn bà con xưa, lại trí hóa nhiều, nói lậu sự Âm -phủ. Bởi cớ ấy, Thượng -đế phong Mạng -Bà lên chức Ứ -vong nương nương, là bà thần cho uống nước mê (tục kêu cháo lú), ở đài Ứ -vong nơi âm -phủ, trước đền Thập -điện; đài ầy mới lập rộng lắm, cấp thơ lại quỷ sứ cho bà sai. Lấy vị thuốc của thế tục, chế ra như rượu, có đủ mùi ngọt đắng cay chua mặn, cho các hồn sẽ đầu thai đều uống, cho lú quên các việc kiếp trước, lại cho mỗi hồn có vài ba phần tật, như nhớ cười lo giận sợ, nhểu nước miếng, đổ mồ hôi, sổ mũi, khóc, khạc nhổ. Người lương thiện, cho thêm thông minh, tỏ tai sáng mắt, mạnh khoẻ; kẻ làm dữ cho tới tinh thần, trở ra bịnh yếu phạt lần, làm cho người biết cải ác tùng thiện. 


Đài Ứ -vong ở trước đền Thập -điện, ngoài sáu cái cầu, cao lớn như nhà khách trong chùa (phương trượng) xung quanh 108 căn, phía đông có đường rộng một thước bốn tấc. Trong các căn đều để bình chén mà đãi các hồn uống nước rồi đi đầu thai. Miễn có uống bao nhiêu cũng đặng. Hồn nào nghịch mạng không uống, quỉ sứ trói giò lại, thọc ống đồng vô miệng mà đổ nhiều nước mê, ực rồi mới mở trói đỡ ra ngoài đường, xô lên cầu tre nổi, dưới sông nước suối chảy đỏ lòm, ngó thấy bên mé có gành đỏ núi gie mé sông đề bốn hàng chữ phấn trắng, nét lớn lắm, bốn hàng chữ như vầy: 


Vì nhơn dung dị tác nhơn nan, 
Tài yếu vi nhơn khũng cánh nan!
 
Dục sanh phước địa vô nan xứ:
 
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan.


Thích nôm:
 


Xưa dễ làm người, nay khó bì, 
Mong làm người nữa khó nhiều khi,
 
Muốn sang phú quí không chi lạ:
 
Lòng miệng như nhau chẳng khó gì.


Các hồn coi rồi, hoặc đọc rồi, có hai con quỉ cao lớn ở mé biển nhảy ra tới mặt nước: một quỉ đội mão đẹn, bận áo gấm, tay cầm giấy viết,vai mang gươm trường lưng đeo còng xiềng, trơn cạp mắt tròn vo cười ngất, ấy là quỉ Huợt vô Thường; còn quỉ kia mặt dơ chảy máu, mình bận áo cổ giữa trắng, tay xách bàn toán, vai vác túi gạo đeo đính bài trước ngực, châu mày nhăn mặt thở ra than dài, ấy là quỉ Sanh hữu Phận Hai quỉ xô các hồn nhào xuống khe nước đỏ mà đầu thai. Kẻ có tội nhiều mừng đặng đầu thai làm người. Kẻ có công chưa đủ siêu thăng, thì tức và khóc rằng. Tu chưa đúng bực nên phải luân hồi cõi trần nữa! Các hồn như say như mê, nhập vào xác con nít trong bụng, hai chơn đạp cái nhao, chung ra khỏi mình mẹ. Lâu ngày tham mùi ngon, không thương mạng vật, xa cách tánh lành, phụ ơn trời phật rộng thương, chẳng lo thác hiền chết dữ, thân sau thể nào, thì cũng làm hồn ma mang thây nữa!
 

Bài nầy là thơ lại ở đài Ứng -vong, viết rõ dưng Thượng đế xin cho để sau Ngọc lịch cho đời hiểu (Nhậm tấu).
 

Vì Thập vương làm não rồi, giao cho các phán quan chép lại vẽ hình kỹ càng, có đề họ tên thuật tích, dưng cho Địa tạng vương xem lại ngày 30 tháng bảy. Qua mồng ba tháng tám Địa tạng với Phong đô Thập điện chư thần đồng dưng cho Thượng -đế phê chuẩn rồi, song chưa có ai xác phàm xuống Am -phủ mà trao Ngọc lịch đem về truyền lại thế giạn. 


Qua cuối đời Tống Nhân - tôn (nước Liêu niên hiệu vua Thái Bình) nhằm năm Canh ngũ, ngày mồng chín tháng chín (trùng cửu trùng dương), Đạm Si đạo nhơn (Kinh Ngô là thầy tu nước Liêu,Hồ tăng) ở gần núi, ngày trùng cửu, lên đỉnh núi dạo chơi, xảy thấy một tấm bia đá, chạm 32 chữ cổ tự như vầy: 


Vô vi đại đạo, thiên tri nhơn tình. 
Vô vi yển minh, quỉ kiến nhơn hình.
 
Tâm ngôn ý ngữ, quỉ văn nhơn thinh.
 
Phạm cấm mãn dinh, địa thâu nhơn hồn.



Thích nôm:
 

Đạo cả thinh không trời biết lòng, 
U minh thần quỉ thấy người ròng.
 
Nói thầm, suy nghĩ, thần nghe hiểu.
 
Tội nặng thâu hồn, đất bắt vong.


Xảy thấy phía trong thắp đèn vàng, trước cửa điện có treo tấm biển 4 chữ:' Xuất sanh nhập tử ' (nghĩa là: đầu thai thì đi ra, thác rồi hồn trở về đó). Đạm Si đương coi, xảy thấy đồng tử áo xanh kéo vào đơn trì (sân sơn son đỏ) quì lạy, rồi thối lui đứng trước thềm. Xảy thấy Thập vương kéo vào, đọc lời chúc ngày vía Phong đô đại đế và dưng bổn Ngọc lịch. Phong đô đại đế xem rồi, truyền văn võ các phán quán, đòi các quỉ sứ ngưu đầu mã diện mang lông đội sừng đều đến chầu, đứng tám hướng.Truyền phán quan đọc bổn Ngọc -lịch một bận. Các quỉ sứ lạy tạ ơn tâu rằng:' Nếu ngày sau chúng tôi được đầu thai, hễ thấy Ngọc lịch nầy thì thề nguyện y theo cho đặng siêu độ '. Xảy thấy hào quang chiếu sáng, các phán quan cai trị thành Uổng tử và ao Huyến Ô, đều đem bổn sổ đến dưng và tâu rằng: ' Từ năm Thượng đế phê chỉ, cho ban phát Ngoc -lịch đến nay, bởi chưa có dịp đem lên Dương gian, nên chúng tôi, tra kỹ những phạm dư trăm ngục, có nhiều hồn khi còn sống hay giảng nhơn quả trong chốn đông người, hoặc giữa chợ đông, hoặc ngả ba ngả bảy, có người nghe tội phước mà hồi tâm. Chiếu theo luật Ngọc - lịch, cũng là khuyên người chừa lỗi, đáng ân xá tội nhỏ, cộng 50.480 hồn khuyến thiện, giảng quả báo. Nên thập vương hội nghị ân xá bọn ấy, định vào sổ đầu thai, tùy theo tội ít tội nhiều cho vào đường phú quí nhỏ, hoặc tầm thường. Kẻ tội nhiều cho làm người khó hèn, hoặc quan quả cô độc (quan là không vợ, goá vợ; quả là goá chồng; cô là mồ côi; độc vô hậu không con, độc mộc đến già), đáng cho uống nước mê mà đầu thai, khỏi hành hình nữa, nên dưng sổ cho Đại đế xem '. Phong đô đại đế xem qua khen phải.
 

Xảy nghe báo rằng:' Có Phật Quan -Âm Bồ -Tát giáng hạ '. Phong đô đại đế với Thập vương đồng ra chào mừng. Quan -Âm mới xuống thì hình phụ nữ, có Thiện tài theo hầu, Long -nữ cầm phướng. Đến khi Đại -đế Thập -vương ra chào mừng thì Quan -âm hoá ra hình ông Tiêu Diện đại sĩ (mặt xanh lưỡi đỏ), mình cao mười sáu thước mộc, truyền chỉ rằng: Ta phụng chỉ Thượng -đế, y lời tâu của Địa Tạng với Thập vương chư thần, xin ban Ngọc - lịch năm đó, cho thế gian ăn năn, nguyện tu chuộc tội, khỏi hành địa ngục: nay cho hồn phạm đầu thai, trẫm rất vui lòng. Lại nghe vời đặng Đam Si mà trao Ngọc lịch, về dạy thế gian cải ác tùng thiện. Trẫm ao ước có người tin Ngọc lịch, truyền giảng mà khuyên đời, chừa lỗi làm lành như mình, được đông người sửa lòng như vậy, thì núi đạo ao huyết cũng bỏ không, các địa ngục càng ngày càng trống, thì người khuyến thiện thành chức: Trí huệ dẫn thiện diễn kiếp Phật ' (vì Phật Trí huệ đem lành khỏi tội). 


Đại đế Thập vương với các thần thành hoàng (thần trong đình) đồng chắp tay nói theo rằng:' Vị khuyến thiện đáng thành chức Phật ấy '.
Quan âm nói:' Nếu người tu ở thế thấy Ngọc lịch mà diễn dịch ra cho người dốt đàn bà con nít dễ hiểu, người ấy thành công đức nhơn thứ pháp thắng Phật ', (Phật công đức nhơn xét tài năng). 

Các vị ấy cũng chắp tay nói theo rằng:' Đáng thành Phật '. 
Quan âm nói:' Nếu ai thấy Ngọc lịch đi đứng nằm ngồi cũng cám mến ơn trời, rèn lòng thanh tịnh, khuyên giảng độ người ăn năn làm lành đặng năm điều thiện, sẽ được làm bạt tiến cho vong hồn tiên nhơn thân quyến. Lòng công bình muốn cho người đặng phước như mình, quyết khuyên dạy nhiều người tu hành, làm bạt tiến cho phạm hồn được đầu thai, địa ngục phải trống, thì người ấy thành: Cứu khổ tiêu huệ Phật '. (Phật Cứu khổ nạn, ơn khắp nơi).
   Các vị hết thảy đều chắp tay nói theo rằng:' Đáng thành Phật '. 

Khi ấy Phong đô đại đế phán rằng:' Bởi Địa tạng vương muốn siêu độ các phạm hồn nên truyền xét hồn nào hồi ở thế có biết ăn năn chừa lỗi, thì ân xá khỏi hành các ngục. Chư thần đã vưng chỉ, Ngài lại truyền Thập vương hội làm Ngọc lịch, dưng xin phê nơi Thượng đế. Nhờ ơn Thượng đế phê cho và có chỉ dụ sửa các khoản... rồi đây Trẫm sẽ dạy. Bởi bấy lâu chưa gặp ai đức hạnh, nhục thân đến cõi U-minh, mà trao Ngọc lịch, đem về Dương gian khuyến thế. Nay Đạm -Si đến dưới thềm, xứng đáng truyền kinh Ngọc lịch. Như vậy nay đã có người rồi các phán quan thơ lại đem cuốn Ngọc lịch, viết thêm lời Quan âm phụng chỉ mới truyền, với chư thần truyền dạy, biên thêm đủ điều và bảo Đam -Si ghi sự tích mình gặp truyền Ngọc lịch vân vân, cho đời hiểu cội rễ. Còn khi trước có chiếu Thượng đế chỉ dụ sửa các khoản:
 

1. Các văn biểu tâu xin phê chuẩn, đều bỏ đừng biên vì rộn ràng e đời khó hiểu.
 
2. Các vị thần với Thập vương đề tên họ thiệt, và thuật lý lịch tích mình vì làm sao mà thành, khoản ấy cũng bỏ, không cho đời biết sự tích làm chi, cứ đề nội tước (chức) như mỗ Bồ tát mỗ đế, mỗ điện mỗ vương, phán quan, thơ lại, để trống mà thôi, không cho đời biết tên họ. Ví dụ: Phong đô đại đế viết Diêm la vương viết. Đề chữ viết, bỏ họ tên, như phán quan viết vân vân, phải chấm câu vòng câu theo lời nói, cho đời dễ hiểu, e ít học khó phân câu. Cứ y chỉ như vậy, các phán quan viết lại, không nên làm sái. Còn mấy bài trẫm bảo thích nghĩa, Dương gian nói sái nói lầm như Huyết ô trì. Uổng tử thành, thập bát tằng địa ngục vân vân, ngày giáp thìn tháng ba, năm nhâm ngũ, trẫm có dưng sớ, Thượng đế cho biên thêm vào Ngọc lịch. Thôi cứ vậy bôi sửa đi '.
 

Khi ấy Thập vương cầm viết, điện nào sửa theo điện nấy, rồi đưa cho phán quan thơ ký chép tinh lại. Khi ấy Đạm Si quỳ dựa bàn án mà xem các phán quan chép tinh lại. Xảy thấy Tiêu diện đại sĩ, hiện lại hình bà Quan -âm, cầm nhành dương liễu châm bình nước cam lồ rải xuống ba lần, rồi đằng vân bay lên cao hết thấy. 
Còn Thập vương cũng từ tạ lui về các điện. Phong đô đại đế bãi chầu, ngự vào trong.
 

Lúc này các phán quan chép các lời Quan âm, sao Ngọc lịch, biên các lời chư thần và đọc cho tôi viết từ chữ:' Thời thiên hạ thái bình canh ngũ niên... tới chữ chúc tất ', cộng 129 chữ. Rồi giao cho các vị viết thêm đủ điều, mới trao cho tôi mà dặn rằng:' Người biết mặt với họ tên chư thần đã nhiều, nay trở về Dương gian, xin đừng nói lậu tên họ anh em chúng ta, e người đời biết có tổ tiên thân thích làm phán quan thơ lại dưới âm phủ, cơn nào nó có bịnh trọng, không lo làm phước cho mau mạnh, nó lại làm nhăng sát sanh cúng tế, đốt sớ điệp, cầu tổ tiên phò hộ cho thêm tội với chúng ta. Vả lại Thượng đế chỉ dụ cho Đại đế tại điện này với Thập vương chư thần, còn phải bôi hết ên họ lý lịch, quê hương sự tích thay! Huống chi chúng ta là phán quan, thơ lại? Bởi lòng người đời khó lường (khó độ) lắm, e khi mượn kế sanh sự nữa, thì người với chúng ta khó mà khỏi tội lỗi, Xin nhớ lời dặn đừng quên?' Tôi thích huyết thề nguyền, không dám nói lậu, lại ghi thêm các lời phán quan thơ lại dặn cho đời hiểu. Nếu tôi đặt điều mà giả mạo lời thần phật, trời đất thánh thần há dung sao?  Nội đêm trùng cữu ấy, Đạm Si đạo nhơn ghi lời bạt. 


LỜI BẠT CỦA VẬT -MÊ ĐẠO -NHƠN 

Tôi hiệu là Vật -Mê đạo nhơn (người tu, thầy tu tiên), tháng sáu, năm Mậu Thân, đi dạo qua tỉnh Tứ -xuyên, huyện Song -lưu, dọc đường gặp thầy tôi là Đạm Si tôn giả (Hồ tăng sãi nước Liêu. Tôi hỏi thăm thầy ở đâu? Thầy tôi trả lời rằng: Ta ở đất Luân hồi sanh tử (sống thác xây vần) ải Nhơn quỉ khứ lai (người ma qua lại) nghĩa là đi lạc xuống Âm phủ mà về đây. Ta nói cho ngươi rõ: những kẻ ở thế gian được phép đến mấy ngày vía Thập Vương, ăn chay cầu nguyện chừa lỗi cũ, cải ác tùng thiện, cứ lạy hướng bắc (chỗ Ngọc đế), nguyện chừa lỗi cũ, không dám phạm nữa, làm lành mà chuộc tội, sau thác hồn khỏi hành hình nơi các địa ngục; ấy là ân xá giảm tội. Tại thế gian nhiều án chạy khỏi chối được chớ xuống âm phủ không lọt một mảy lông, không than cũng chẳng phép chuộc tội. Quí tại còn sống ăn năn làm lành mà trừ tội mới đặng. Ngặt người đời chẳng xét, tại cái thiện thì làm người, tâm ác thời làm vật. Song kẻ phụ nữ trăm người còn biết ăn năn làm lành một hai người. Chớ đàn ông ngàn người, may có một người cải ác! Có nhiều khi gần chết mà chưa biết ăn năn, thì phải chịu hành nơi địa ngục!
 

Nay nhờ ơn Địa tạng vương bồ tát truyền Thập vương dọn Ngọc lịch, xin chỉ Thượng đế phê cho thế gian, biết ngày ăn năn nguyện làm lành chuộc tội, lại truyền bổn Ngọc lịch cho ta. Ta khuyên đời phải biết: có phước mới đặng làm người, còn sống, rán ăn năn lành lành kẻo muộn. Ngươi có lòng khuyến thiện, nay ta trao Ngọc lịch cho ngươi sao ra truyền cho đời biết '. Ta quì lạy lãnh cuốn Ngọc lịch thầy ta lần lần bay lên cao. Nên ta sao ra cho đời, ai khắc in ra lưu truyền cho đời khỏi tội thì mình được phước. Khuyên ai phạm tội mau chừa, không phạm thì rán mà giữ. Đừng đợi thác rồi, mới muốn sống lại mà tu không đặng. 

VẬT MÊ ĐẠO NHƠN (ghi ký)
 

Mười ngày vía Thập vương, đều lạy hướng bắc:
 

Nhứt điện Tần quảng vương mồng 1 tháng 2
 
Nhị điện Sở giang vương mồng 1 tháng 3.
 
Tam điện Tống đế vương mồng 8 tháng 2.
 
Tứ điện Ngũ -quan-vương 18 tháng 2.
 
Ngũ điện Diêm-la-vương mồng 8 tháng giêng.
 
Lục điện Biên-thanh-vương mồng 8 tháng 3.
 
Thất điện Thái -san-vương 27 tháng 3.
 
Bát điện Bình -Đẳng -vương mồng 1 tháng 4.
 
Cửu điện Đô-thị -vương mồng 8 tháng 4.
 
Thập điện Chuyển -luân-vương 17 tháng 4.
 
Và 14, rằm, 16 tháng 5, mồng 3 tháng 8, mồng 10 tháng 10
 
ăn chay ngủ riêng như trên. Vía 10 vua, nội 4 tháng 1, 2, 3, 4.
 


THÁNH ĐÀN TRAI KỲ GIỚI KỲ 
(cấm phòng)
 

Các vía lớn, ăn chay, hoặc ngủ riêng, khỏi tội đặng phước. Tuy không ăn chay mà ngủ riêng cũng quí hơn. Tháng nào nhuần thì theo tháng trước:

Tháng giêng: Mồng 1 vía Di Lặc, Thiên-Lập, ngày cúng trời. Mồng 3 vía Tôn chơn -nhơn, tổ thuốc và Hát chơn nhơn, ông tiên. Mồng 6 vía Định -chơn -Phật. Mồng 8 ngũ điện, Giang- đông thần. Mồng 9 vía Ngọc -hoàng thượng đế. 13 Lưu -mãnh tướng quân. Rằm vía Thượng -nguơn, Thiên -quan đại đế. Hựu -thành Tịnh -ứng chơn quân. Từ mồng 8 đến rằm, các vị ấy đi dẹp yêu quái, ai ăn chay, ngủ riêng, tụng kinh, có phước hơn mấy ngày thường thập bội, 19 Khưu -trường Xuân, ông tiên, cũng tổ thuốc ông đặt chuyện Tây-du.

Tháng hai: Mồng 1 vía Nhị - điện, Thái dương, Câu-trận. Mồng 2 vía Thổ địa chánh, Tử -đông Văn -xương (Tụng Bổn nguyện, Bảo sanh). Mồng 4 Táo tướng quân. Mồng 6 Đông-Huê đế quân. Mồng 8, Trương đại -đế, Tam điện, Thích -Ca xuất gia (tụng Kim cang) 13 vía Các -chơn -quan, tổ thuốc, Rằm vía Thái, thượng lão -quân (tụng Cảm ứng). Tinh -trung Nhạc nguơn-soái -17 vía Đỗ -tướng -quân. 18 Tứ -điện. 19 Quan -âm (tụng Phổ -môn, Cứu -khổ). 21 vía Phổ -hiền bồ tát, Thủy -long Thánh -mẫu nương -nương. 25 vía Huyền -thiên thượng -đế thánh -phụ Minh chơn -đế. 

Tháng ba: Mồng 1 vía Nhị điện. Mộng 3 vía Huyền thiên thượng đế (tụng kinh Báo ân cho cha mẹ ). Mồng 6 vía Thượng lão tướng công, Nhạng hương. Mồng 8 Lục điện, 13 Trung ương ngũ đạo. Rằm Hạo thiên, Huyền đàn, Lôi đình, 16 vía Chuẩn đề Sơn thần, 18 Hậu thổ nương nương, Trung nhạc. 20 vía Tử tôn nương nương (bà chúa thai sanh). 23 Thiên hậu nương nương 27 vía Thất điện, 28 vía Đông nhạc đại đế, Khương hiệt (ông thánh chế chữ). 

Tháng tư: Mồng 1 Bát -điện. Mồng 4 Văn thù bồ tát. Mồng 8 Thích -ca Phật tổ, Cửu điện, Doãn -chơn -nhơn. 14 Lữ -tổ, Thuần dương, Rằm Thích -Ca thành (tụng Kim -cang). 17 vía Thập -điện... 18 Tử -vi đại -đế. 20 Nhãn -quang thánh -mẫu. 26 vía Chung -san tướng công. 28 vía Dược -vương cổ Phật. 

Tháng năm: Mồng 1 Nam -cực đại -đế. Mồng 5 Địa -lạp (cúng đất). Ôn -ngươn-soái, Đặng -thiên quân. Mồng 7 vía Châu -thái -úy. Mồng 8 Nam phương ngũ -đạo 11 vía Đỗ -thành -hoàng (cai trị các thành -hoàng). 12 Bỉnh -linh -công. 13 vía Quan thái tử. 14 rằm, 16, ba ngày kị thần (cấm phòng). 17 Trương -thiên-sư. 20 Phùng chơn -nhơn. 29 Hứa oai hiển vương.
 

Tháng sáu: Mồng 4 chư Phật giáng. Mồng 6 Thôi -phủ -quân. Mồng 10 Lưu -hải -thềm đế quân. 13 Tỉnh -tuyền Long -vương. 19 Quan -âm thành đạo 23 vía Quan -đế, Vương linh-quan. Hỏa -thần. 24 Lôi -tổ. 26 Nhị -lang 27 Thiên -xu tả tướng (châu tử). 

Tháng bảy: Mồng 7 Đạo -đức -lạp (cúng thần tiên), Ngưu -lang Chức -nữ. 12 Trường -chơn, Đàm chơn -nhơn. 13 Đại -thế chí bồ tát. Rằm Trung -nguơn, Địa quan đại đế. Linh -tế chơn quân. 18 Diêu -trì Tây -vương -mẫu nương nương. 19 Trị -niên thái -tuế (An giao). 21 Phổ -am tổ sư, Thượng nguơn đạo hoá. Đường chơn -quán. 22 Tăng phước tài thần, 23 Thiên -xu thượng -tướng chơn -quân (Gia -cát). 24 Long -thọ -vương bồ tát.30 Địa -tạng -vương bồ -tát (U -Minh giáo chủ).

Tháng tám: Mồng 1 Thần -công Diệu -tế Hứa -chơn -quân. Mồng 3 vía Táo -quân (mồng 3 với 27 Bắc -đẩu giáng hạ phải cữ) 
Mồng 5 Lôi -thinh đại -đế. Mồng 10 Bắc -nhạc đại -đế. 12 Tây -phương ngũ đạo Rằm thái -âm triều nguơn (tụng Thái -âm), 18 Tửu -tiên (Lý -thái -Bạch). 22 Nhiên Đăng Cổ Phật. 23 Phục -ma phó -tướng Trương -hiên -vương (ông Trương). 24 Táo -Mẫu (bà Táo.)
 

Tháng chín: Mồng 1 Nam đẩu giáng hạ (Từ mồng 1 đến mồng 9, 9 sao). Mùng 3 Ngũ ôn. Mùng chín Cữu thiên huyền nữ. Phong đô đại -đế. 16 Cơ thần. 17 Kim Long tự đại lương, Hồng ân chơn quân. 23 Tát chơn nhơn. 26 Ngũ hiển linh quan. 30 Dược Sư Phật. 

Tháng mười: Mồng 1 Dân tuế lạp, Đồng hoàng. Châu chơn quân. Mồng 3 Tam mao ứng hoá chơn quân. Mồng 5 Đạt ma sư tổ. Mồng 6 Thiên tào chư tư, Ngũ nhạc Ngũ đế giáng hạ. Mồng 8 vía chư Phật hội niết bàn, phóng sanh có phước thập bội. (Nếu ngày mồng 8 tháng 10, làm một tội nặng bá bội ngày thường). Rằm Hạ nguơn Thủy quan đại đế, Đậu thần: Lưu sứ giả. 20 Trường hư Tịnh thiền sư. 27 Bắc cực Tử vi đại đế. 

Tháng mười một: Mồng 4 Đại thánh chí thánh Văn tuyên vương (Khổng tử). Mồng 6 Tây nhạc đại đế. 11 Thái Ất Cứu khổ thiên tôn. 17 A di đà Phật (tụng Di đà). 19 Nhựt quang thiên tử, Cữu liên bồ tát. 23 Nam đẩu giáng hạ, Trương tiên, 26 Bắc phương ngũ đạo. 

Tháng chạp: Mồng 1 Tiên phật giáng hạ (tụng kinh phước hơn nhiều). Mồng 8 Vương hầu lạp, Trương anh Đế, Thích Ca thành Phật (tụng Kim cang). 16 Nam nhạc đại -đế. 20 Lỗ ban. 21 Thiên du thượng đế. 24 Tư mạng Táo quân chầu trời (tối 23 cúng đưa trước). 29 Hoa nghiêm bồ tát. 30 Chư Phật giáng thế xét lành dữ. 
Mỗi tháng mồng 8, 14; rằm, 23,29, 30 Bắc đẩu giáng hạ, ăn chay tụng kinh.
 

Tùng nhiên hòa thượng ở chùa Thiên thai đặt bài khuyên thế. 
Người đời chẳng tin nhơn quả báo ứng, nên có kẻ số thọ mà yểu, số giàu mà nghèo, tướng làm quan mà thi rớt! Sách Bửu giám nói:' Lành thì trả lành, dữ thì trả dữ: nếu chưa trả, tại ngày chưa đến '. Lại có bài thơ rằng:
 


Trời sanh khó dối bởi không tây (tư -vị).
 
Mới tính thần hay nạp sổ nầy.
 
Lành dữ rốt rồi đều trả quả.
 
Chẳng qua đều kíp với đều chầy.
 

Kinh Nhơn quả nói;' Phỏng kiếp trước dữ lành, coi đời nầy hoạ phước. Độ kiếp sau hoạ phước, tại đời nầy dữ lành '. Lại nói rằng:' Dầu làm dữ mấy kiếp, cũng trả cho mình '. Kinh Niết -bàn nói:' Quả báo có ba cắch! 10 Hiện báo, làm lành dữ đời nầy, trả phước họa cũng nội đời nầy; 20 Sanh báo: kiếp trước làm, trả kiếp nầy, đời nầy làm, trả đời sau; 30 Tốc báo: mới làm lành dữ, trả phước hoạ nhãn tiền, trước mắt tức thì '. Phải biết trời đất không tư vị ai, tại mình làm lành dữ nặng nhẹ, nên trả mau chậm khác nhau. Người đời khó hèn, điếc câm đi nhót, gãy tay, tật nguyền bịnh trời cho, đói lạnh, đều tại kiếp trước hưởng xài quá lẽ, làm dữ phạt nội đời ấy chưa hết kế tới số chết, nên đầu thai kiếp nầy phải phạt thêm cho đủ tội, Như vậy mà không tin nhơn quả báo ứng làm sao? 

Người đời những kẻ không tin địa ngục, đến gần chết hay thấy ma quỉ, hoặc nghe tiếng binh khí, xiềng tỏa mới tin có quỉ thần địa ngục, liền van vái cầu thần. Té ra đèn giữa gió, gần tắt, ăn năn muộn sao kịp, khó trốn quỉ Vô thường. Quí tại ăn năn cho sớm, tỉnh lại mà tu, gần chết mới sợ vô ích. 

Đời Tùy vua Khai hoàng, có quan tự thừa Triệu văn Xương chết đi sống lại nói rằng:' Hồn xuống âm phủ thấy Châu Võ đế bị xiềng ba lớp tại phòng, kêu Xương lại mà nhắn rằng:' Khanh về tâu với Tùy hoàng đế rằng: các tội trẫm cãi lẽ xuôi hết, còn một tội hủy Phật nặng lắm, mau làm phước bố thí, tụng kinh mà cầu cho trẫm khỏi tội ,' Xương ra ngoài thấy một người dưới hầm phẩn ló đầu lên, hỏi ai đó? Người ấy đáp rằng:' Ta là Bạch -Khởi, tướng mạnh đời Tần '. 

Sách Danh thần ghi:' Kinh Công có tên con Phương dữ lắm, xúi Kinh Công làm nhiều điều trái lẽ. Đến Phương thác, Kinh Công mơ màng thấy Phương mang gông đứng dựa cửa. Kinh Công sửa nhà làm ra kiểng chùa, bố thí tụng kinh cầu Phương khỏi tội '. Lấy sách nho đó làm chứng, đủ tin Ngọc lịch, thì khỏi khổ phần hồn, Ông Tư mã Ôn công nói:' Trên có Thiên đường. Người quân tử thác rồi, lên Thiên đường, dưới có Địa ngục, tiểu nhân thác rồi hồn sa Địa ngục.' Sao gọi không Thiên đường Địa ngục? 

Đoan sơn đại tiên là ông Vương chương, đặt kinh thế lục rằng:' Thiệt quả có Địa ngục. Bởi người tính lành, thì thuộc dương sáng, nên khí thanh lên thiên đường. Còn lòng tính dữ, thuộc âm tối nên khí trược xuống Địa ngục. Diêm quân tra hỏi, hành tội mổ bụng rút ruột, đốt cháy nấu dầu là tại lòng chứa dữ '.
 
Người đời không tin thác rồi đầu thai. Như kẻ không con, cưới vợ bé nhiều cũng vô ích, vì không thai nghén hoặc có nghén bị tử phúc trung, hoặc chết theo mẹ, không thì nuôi lớn chưa kịp có con mà chết yểu, thì cũng vô hậu, những kẻ ấy thiệt là vô phước lắm. Nếu vợ chồng có con sum hiệp đến già, tuy khó hèn cũng là có phước nhiều ít mới đặng vậy.
 

Sách danh thần nói:' Mẹ ông Phạm -tổ -Võ, lúc gần sanh ổng, chiêm bao thấy người cao lớn xưng mình là Đặng -Võ tướng quân đời Hán, thức dậy sanh con trai mới đặt tên Tổ -Võ. Đến lớn ở thuần lắm, nên đặt tự Thuần -Phu '. 
Còn sách Tự -Loại, sách Mông -Cầu, có ghi tích Dương Hộ sanh ra, mà nhớ chiếc vòng kiếp trước. Bảo Tịnh nhớ cái giếng kiếp trước. Con gái Hướng Tịnh chết non. rồi đầu thai lại nữa, nàng nói chuyện kiếp trước không sai. (Con ranh con lộn mà nuôi được ). Ngươi Văn Thẩm sống lại nhập vào xác khác. Những tích ấy đều tại sách Nho, sao không tin luân hồi đầu thai kiếp khác.
 
Phàn người lành, đầu thai nhà giầu sang có đức mà hưởng phước. Công quả bằng nhau đầu thai nhà tầm thường. Công ít quả nhiều, đầu thai nhà rủi ro, hèn khó mà trả quả. Như trong Ngọc lịch nói:' Thử lòng kẻ ấy, còn làm dữ nữa, không biết ăn năn mà làm lành, Thác Địa ngục làm con Tích, đầu thai làm thú vật, nếu về hoá sanh lộn mãi, hết trông làm người '.
 

Bà Diệu Huệ chơn nhơn (bà thân ông Văn Xương) nói:' Con người ở đời, sống thác không nhứt định, ở tạm rồi đi, như trăng tròn khuyết, như hoa nở tàn. Ngày nay mới sanh là hồn chết kiếp trước lộn lại. Nếu thân trước chưa thác, thì hồn ấy có lộn vào xác nầy mà sanh ra đâu. Nếu ngày nay đến chết mà biết mình tội nhiều, thì trông chi đầu thai tử tế. 

Người đời chẳng tin thác rồi đầu thai làm thú vật. Sách Nho biên sự đầu thai ấy rất nhiều, chẳng phải một tích. Sử Tùy thơ, Lý sĩ Khiêm nói:' Ông Cổn là cha Địa Võ, hoá làm con cua đinh ba cẳng, gọi là con ba ba, Ngươi Đỗ Võ hóa làm đề Quyên là con quốc. (Nên chim quốc tên là Đỗ Võ Đỗ Quyên). Bao Quân hóa rồng. Ngưu Ai hóa cọp, Bành Sanh hóa heo rừng. Như Y hóa chó. Huỳnh Mẫu hóa vịt, như càng thay lớn lắm. Tuyên Võ hóa trạch (cua đinh, tục kêu là cá giải). Đặng Văn hóa trâu. Từ Bá hóa cá. Kim Hạ hóa quạ, Thơ Sanh hóa rắn '. Các điều đó biên nơi sách Nho, sao mà không tin? 

Đức Thánh Khổng -tử nói:' Sanh ra đến già phải thác, làm người chẳng sống đời, nếu theo dữ bỏ lành, sao khỏi làm loài khác '. Kinh Lăng Nghiêm nói:' Người thác làm dê, dê thác làm người '. Phổ Am tổ sư đặt bài kệ rặng:' Súc sanh bổn thị nhân lai tác, nhân xuất luân hồi cổ đáo câm, Bất yếu phi mao tinh đái giác, khuyến quân hưu sử súc sanh tâm '. Nghĩa là: người lộn súc sanh cũng tại tâm, xưa nay người vật chuyển luân thầm. Muốn không đội gạc mang lòng xấu, khuyên chớ làm theo dạ thú cầm. 

Ông Tịnh Trai học sĩ nói.' Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý, khởi miễn luân hồi '. Nghĩa là: Khôn lanh khó chữa tội, phú quý cũng luân hồi. 
Ông Hồng Mai nói:' Hay coi thọc huyết heo, làm thịt dê, sau gần chết la như tiếng heo dê kêu vậy, có khi chết rồi đầu thai làm chim, cho người mua mà thả. Nếu đàn bà hay coi sát sanh dê heo lắm, có khi đẻ ra đầu dê, hoặc mình rắn, hoặc trứng như trái cầu (đẻ bọc) '. Cứ theo lời ấy, người ta còn đẻ súc vật côn trùng, hoặc đẻ trứng, huống chi thác rồi đầu thai làm súc vật, mà gọi không lẽ. Bởi luân hồi mà trả nợ thường mạng, là nhơn quả xoay vần. Khuyên đời đừng gọi mắt chưa thấy nên chẳng tin, cứ làm dữ mãi (tin tại phải lý, lựa chờ mắt thấy, đợi mắt thấy đà chết rồi còn gì! ).
 

Xưa có kẻ hỏi thầy Trình -tử rằng:' Phật nói chết rồi đi đầu thai nữa, sự ấy thấy thiệt chăng? Thấy Trình -tử nói:' Sử ấy nói có nói không cũng khó hiểu. Song xét lời đức thánh Khổng -tử dạy rằng:' Vị tri sanh, yên trí tử ' (chưa biết sự mới sanh đâu biết sự thác rồi), do một câu ấy thì đủ hiểu rồi '. Coi Trình -tử và ông thánh đời Tống; mà chưa dám gọi không luân hồi đầu thai. Còn xét lời nói đức thánh Khổng -tử, đâu biết việc thác, thì sự luân hồi đầu thai không phải huyễn. 

Ông Châu -liêm -Khuê tự Mậu -thức, là thầy hai ông Trình -tử, Trình -Hi, Trình -Hạo, ( Y Xuyên với Minh Đạo ). Khi ấy ông Châu -liêm -Khuê hỏi thầy Huỳnh -Long-Nam thiền -sư rằng:' Chẳng hay đạo Phật có dạy sự nhiệm mầu riêng hơn đạo nho chăng? ' Huỳnh -Long Nam thiền -sư nói:' Thầy hãy xét các câu sách nhà nho của thầy như đức Khổng -tử nói:' Triêu văn đạo, tịch tử khá hỉ ' Nghĩa là 'Sớm mai nghe thấu mùi đạo, chiều thác cũng đành '. Xét đạo ấy nghĩa là chi? Còn ông nhan -tử không đổi sự vui, là vui việc gì? Xét ra lý hai câu ấy, lâu lâu mới biết hiệp cái nhiệm mầu của đạo Phật, chớ không chi lạ mà hỏi '. 

(Đạo là thông hiểu sự phải, chắc ý mà làm, chẳng hồ nghi chi hết, vì biết số mạng trời định, cứ phải mà làm, tố nào theo tố nấy, chẳng phải rán cượng cầu mà đặng, nên đức Khổng -tử nói:' Nếu cầu đặng sự giàu, tuy ra sức mệt nhọc, làm việt hèn hạ như kẻ đánh xe, mà đặng giàu ta cũng rán chịu cực chịu nhục mà làm cho giàu. Nếu tại số trời định, có cượng cầu cũng vô ích, thì thà an phận mà theo tố, là chỗ ưa của ta '. Nên ông Nhan -tử thông mùi đạo, cứ giữ đức hạnh học hành sửa mình gọi là vui theo tố bần tiện, chớ không rầu buồn sự nghèo khó, nên sau ngày mãn phần làm chức Tu -văn -Lang tại Âm phủ cũng đồng liêu với thầy Tử -Hạ. Đức thánh Khổng -tử cũng nói:' Thực sơ phạn, ẫm thủy, khúc hoăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hỉ. Ăn cơm rau, uống nước lã, co tay làm gối nằm, ngài cũng vui vậy, là tại biết đạo, biết mạng, tố nào theo tố nấy.' Quân tử vô nhập, nhi bất tự đắc '. Người quân tử không gặp cảnh nào mà chẳng vui, bởi vậy ngài mới thành thánh. Người đời không biết đạo, lòng tham vọng tưởng, cượng cầu cực khổ, không lợi lại bị hại, mau chết mà mắc tội nhiều, hại tới thân kiếp sau và để họa cho con cháu. 
Người đời xem Ngọc -lịch mà nửa tin nửa nghi, chưa dám đoán chắc là tại học chưa đủ lý; té ra gặp phước mà bỏ qua. Nếu hiểu nhơn quả đời trước làm lành dữ, đời nay chịu phước họa. Đời nay làm lành dữ, thì kiếp sau chịu phước họa mà còn nghi chi nữa? Nay nhờ ơn trời, nhậm lời Thập vương chư thần, cho truyền Ngọc lịch đủ bằng chứng khỏi nghi, cũng như tích Lâm -tự -Kỳ sống lại, ghi lại cuốn Hồi -dương nhơn -quả thì mau ăn năn làm phước chuộc tội nếu đợi gần chết ăn năn sao kịp?
 


TÍCH TRUYỀN NGỌC LỊCH MÀ CỨU HỒN MẸ 

Tỉnh Tứ Xuyên, thân Dậu đường, ông Viện- cẩn- An mãn phần, để một trai lại, tên là Dức- Sơ mới bảy tuổi. Vợ Cẩn An là Thiệu- thị thương con ốm yếu, nghe lời họ bày phép bổ nguơn , mỗi ngày dùng gà mập, nấu lấy nước thịt gà làm canh cho con ăn cơm. Nên mua gà nhiều lắm, đào trùng dế, nuôi cho mập đặng nấu cho con ăn. Dức-Sơ 15 tuổi Thiệu- thị bịnh ghẻ đau nhức cùng mình, như dế
 cắn gà mổ, mà cũng còn nhắc đầy tớ gái, làm gà cho con ăn. Đức-Sơ hiểu ý liền cản cấm không cho làm gà nữa. Thiệu thị đau bảy năm, gần chết làm gà gáy , dế kêu, cào rách mình mà chết! Đức-Sơ khóc kể vì mẹ thương mình, nên sát sanh mới bị quả báo, liền thề cữ sát sanh Cách một năm có nàng Ning-Cô là chị con nhà bác, gả cho Tiền bị đẻ mà chết. Hồn xuống Nhựt-điện, vua xem bộ phán rằng:' Nàng nầy tội nhiều, đáng bị sản nạn, giao qua Nhị-điện hành hình '. Phán quan tâu rằng:' Viện-Ninh-Cô có khuyên cha mẹ chồng đừng đốt cây khô nhiều kiến, đã ba lần. Lại khuyên chồng khắc in van giới sát cho người 5000 tờ và phụ in kinh Quan-âm phóng sanh văn 3000 tờ. Táo quân tâu Thượng-đế cho sống thêm 30 năm nữa. Vua Nhứt-điện đứng dậy phán rằng:' Lành thay!' Liền sai kẻ áo xanh cầm phướng đưa hồn về. Ra tới cửa ngõ đỏ, có thắp đèn vàng, nghe tiếng kêu rằng:' Ninh-Cô cứu ta với!' Ninh-Cô ngỏ thấy thiếm là Thiệu-Thị đầu tóc chôm bôm, mình máu lội bộ, chạy theo khóc rằng:' Cháu sống lại nói cho con ta hay, rằng ta bị khổ dưới âm-phủ bảo làm phước mà chuộc tội cho ta, nếu khỏi tội, ta về cho chiêm bao mách bảo trả lời. Xảy thấy quỷ tóc đỏ cầm chĩa đâm họng Thiệu thị mà dẫn đi, Ninh cô sống lại, thuật chuyện... Đức sơ hay, liền lạy Phật làm chay, tụng kinh tới 19 năm mà không thấy chiêm bao. Cưới vợ là Thi thị, cũng cữ sát sanh. Sau thấy kinh Ngọc Lịch, Đức Sơ nguyện sao tả cho người đặng chuộc tội mẹ. Mới tả được 120 bổn lẻ, cho mới được 108 cuốn. Nhằm niên hiệu vua Càn-long trào Thanh, là năm canh ngũ, đêm rằm tháng giêng, chiêm bao thấy Thiệu thị về vỗ lưng con mà khen rằng:' Con thiệt có hiếu. mẹ ra khỏi ngục, nhờ phát Ngọc lịch 49 người hồi tâm, vua đà tha tội, lại cho về mách bảo con hay, hồn mẹ được về ở tại mã, giờ tý ngày 18 nầy, sẽ đi đầu thai hưởng phước. Còn con cũng đặng sống lâu nữa '. 

Đức Sơ hỏi:' Cha tôi bây giờ ở đâu? ' Thiệu thị nói: ' Đầu thai đã lâu, lại chú giải kinh Nhơn quả với Thiệu thơ, nên thi đậu làm quan và mạnh khoẻ '. Đức Sơ hỏi:' Ở tại xứ nào? ' Thiệu thị không nói, xơ Đức Sơ thức dậy. Đức Sơ thuật chuyện cho vợ nghe...Thi thị nói:' Tại mình mơ tưởng sao tả Ngọc lịch nên chiêm bao thấy vậy '. Sáng Đức Sơ dọn đồ ăn bưng tế mã mẹ và đốt giấy áo, vàng bạc, vái rằng:'Nếu mẹ cho con thấy chiêm bao nữa, thì con mới tin chắc '. Đêm ấy, Đức Sơ thấy Thiệu-thị về điểm mặt Thi-thị mà mắng rằng:' Mầy ghét chồng sao Ngọc-lịch nên mầy xé năm cuốn, thiếu chút nữa mà hại ta! Lại nói cho chồng không tin điềm thiệt, mầy sẽ mắc họa bây giờ '. Đức-Sơ giựt mình dậy hỏi vợ, sao mình xé 5 cuốn Ngọc lịch. Thi thị nói: "Đừng có nói yêu nói ma, có ba điều không đáng tin lắm: 1. Cữ sát sanh, không cho đồ sống vô nhà, như sãi vãi một thứ; 2. Đêm nào ngày nấy, thầy sãi tụng kinh hơn hai mươi năm mà cũng còn mắc tội dưới âm phủ! Giá gì sao mấy bổn kinh mà phước nhiều vậy? Còn tin là nghĩa gì? 3. Nói tôi xé 5 cuốn, sao mình không nghĩ? Mình viết rồi cất vô tủ khóa lại, tôi làm sao mở đặng mà xé, còn tin nỗi gì? Chẳng phải thiệt hồn mẹ về mách bảo đâu! Ấy là mình vọng tưởng mà thấy bậy, e không bao lâu, sẽ điên cuồng mà chớ!" Đức Sơ nghe nói lưỡng lự, vì cũng phải lý dễ nghe. Đêm 17 qua ứng mộng bên nhà em
 Thi thị và ứng mộng nhà cháu là Ninh-Cô, rồi ứng mộng dâu con mà mắng rằng:' Mồng sáu tháng bảy năm ngoái Châu-phụng-Cô là gái xóm nầy vào nhà ngồi chung với mầy mà thêu giày, mầy có lấy một cuốn Ngọc lịch để trong rổ may. Đêm sau mầy giận chồng mầy không cho Phụng-Cô vô nữa, nên mầy xé 5 bổn Ngọc lịch. Bữa sau em mầy là Thị-Phúc đến thăm, thấy kinh rách, năn nỉ xin về đóng lại dán lại viết vô mà cho người, Âm phủ đã ghi phước cho Thị-Phúc. May sao con ta để vô tủ mà khóa, phải không thì mầy cũng xé nữa! Nay lại chối lức đặt chuyện ba điều không đáng tin, tội già làm nặng lắm. Táo thần với Thổ địa đã chịu cho tà quỉ vô nhà hành mầy chạy đâu 
cho khỏi họa!' Nói rồi xô đổ bàn để đồ trang điểm một cái rầm! Vợ chồng giựt mình thức dậy! Đức -Sơ hỏi vợ tin không! Thị-thị nói: Ai tin thì gọi có, ai không tin thì gọi không '. Xảy thấy một đống khói đen bay vô cửa phòng! Thị thị rùng mình, ngó chồng mà nói rằng:' Mình tả thêm ít cuốn nữa, thà tin là có, chớ gọi là không '. Đức Sơ biết vợ có xé kinh thiệt, nên mới nói như vậy. May mẹ đã đầu thai, nên tin chắc, thôi cậy sãi tụng kinh nữa, quyết lòng tả Ngọc lịch làm phước.
 

Đêm ấy Thi-thị phát óng, lưng vai đau nhức như đánh như dần. Rước thầy thuốc coi mạch. Thầy thuốc nói:' Ấy là âm độc làm ghẻ ác, phần thím có thai, nên không dùng thuốc nóng mà trị, thế phải chịu phép!' Đức Sơ rầu lắm. Kế em vợ là Thị Phúc ghé. Ninh-Cô cũng đến thăm, đồng thuật chuyện chiêm bao, bảo Dức-Sơ van vái. Đức Sơ vào bếp, vái ông Táo, nguyện tả một trăm bổn Ngọc lịch mà cầu cho vợ mạnh. Thi thị đương nóng mê, vùng dậy quì dưới đất, lạy khan mà nói rằng:' Từ rày sắp lên, tôi tin Ngọc lịch, tình nguyện bán hết đồ nữ trang mướn tả Ngọc lịch, cho người mà chuộc tội '. Xảy thấy ông đội mão thất tinh, bận áo đen, đuổi đống khói đen dưới giường lăn ra bay ra mất. Thi-thị bớt nóng hết sưng lưng vai (chứng phát-bối). Bữa sau sanh con trai, mẹ con mạnh khoẻ. Nội trong hai tháng, vợ chồng mướn nhiều người tả đủ một trăm bổn Ngọc-lịch cho người. Bởi vợ chồng cám ơn thần, nên biên sự tích vào đây mà khuyên đời, không dám giấu sự lỗi.
 


No comments:

Post a Comment