Wednesday, April 8, 2015

Hồi Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh (3)


BỞI CHÊ NGỌC LỊCH BỊ PHẠT NHÃN TIỀN 

Phan ngưỡng Chí là học nho, không tin Ngoc lịch, viết bậy vô mà kiêu ngạo. Phê tại câu: ‘ Đâu thấy hồn ma mang gông’. Đề ba chữ son rằng: ‘Thị chi chỉ’. (rất phải lắm). Bởi mực mấy bài từ Nhứt điện tới thắt điện. Tại Ngũ điện lấy son gạt tréo. Trên câu nói: ‘Uống rượu lảng phí,’ nó đề hai chữ son lởn.’ Khả tiếu’ (Tức cười quá!). Chỗ Thập điện nói câu: ‘ Đàn bà con gái bị học trò gật nên thuận theo thất tiết...’ Nó đề II chữ mực: ‘ Phụ nữ tự kỉ tầm tử, dữ nam tử hà thiệp?' (Tại phụ nữ liều mình, đàn ông có can cớ gì?' Chỗ nói đầu thai, nó đề hai chữ son: ‘ Loạn họa!' (nói bậy!) Chỗ Mạnh bà, mấy câu ấy, nó chấm mực vài hàng. Trên bốn chữ’ Khổ căn nan đoạn’ ( còn đầu thai cõi trần cực khổ ) nó khuyên son trết! Tới câu: ‘ Làm hồn ma mang thây nữa,' nó khuyên son 9 khuyên. Từ ấy sắp sau, chỗ bôi chỗ gạt tréo, cho tới chỗ câu: ‘ Hào quang chiếu sáng, Quan âm giáng hạ,' nó vùng phát điên. Nửa đêm nó mở cửa chạy ra phố chợ, hai tay chống đất, bò càng, lật phao tay đổ máu, trầy đầu gối lả giò, bò một hồi làm như bị trói cẳng, mọp đó la lớn rằng: ‘ Bớ con ơi!! Mau đem cuốn kinh Ngọc lịch ra đây, đặng đưa cho lối xóm, đem cúng trong chùa Tây Nhạc đại đế’. Con nó về lấy kinh trao cho xóm, trở vô thấy nhà phát hỏa, cóng cẳng chạy ra không kịp nên bị chết thiêu! Nó nóng họng chạy về chữa lửa, thấy vợ nó là Hoăng thị lõa thể (trần truồng) chạy ra, Ngưỡng Chí mắc cở nói với xóm rằng: ‘ Người đời đừng bắt chước tôi ở độc nhiều năm, nay thấy Ngọc lịch, còn không tin mà chừa lỗi, lại phê ngạo nhiều câu, nên bị trời phạt nhãn tiền độc quá!’ Nói rồi lửa cháy tới, cứng cẳng chạy không đặng, phải bị chết thiêu. Bầy chó nhảy vô kéo thây ra, xé ăn tới xương cốt! Xóm coi thấy phê trong Ngọc lịch như vậy, ai cũng rùng mình! Mới biết tại tội nặng quá, nên trả lẹ lắm!!! Còn vợ nó mắc cở trốn xứ nào bặt tin không biết!
 

GANH GHÉT MUỐN DẸP NGỌC LỊCH BỊ BÁO NHÃN TIỀN 

Tại xứ Tây hương, chùa Thổ cốc (ông Trương), có một sãi, tên Đạt Viễn, đặng cuốn ngọc lịch, cầm qua am Thuần dương mà coi với đạo -sĩ (thầy pháp) tên Quán-Tiên. Hai thầy coi tới chỗ thầy chùa thầy pháp ăn tiền tụng mướn mà tụng sót, thác sau phải vào sổ Bổ kinh mà tụng bổ, vân vân. Lại coi tới chỗ luân hồi, nói thầy chùa thầy pháp có tội nhiều, các ngục hành hình không đặng, phải cho uống thuốc mê, đầu thai tử phúc trung, hoặc chết yểu nhiều kiếp, cho lú quên hết kinh chú, rồi mới hành hình, vân vân. Đạt -Viễn nói: ‘ Chúng ta nhờ cậy tụng kinh mướn mà khá, nếu Ngọc lịch lưu truyền nhiều chỗ, thì nghề làm ăn chúng ta phải ế! Dầu xé đốt Ngọc-lịch cũng không hết đặng, biết tính làm sao? Quán-Tiên nói: ‘ Tôi biết cầm cơ thỉnh tiên. Thầy sẽ bảo các sãi rủ người ngoài, hoặc bổn đạo đến coi thỉnh tiên. Tôi làm bộ cơ lên, viết chữ nói phá Ngọc-lịch thì chúng hết tin’. Đạt -Viễn đi khoe cùng nói tại am Thuần-dương (Lữ-đồng -Tân) thỉnh tiên linh lắm, ai cầu hỏi việc gì, thì đến mà hỏi, hoặc xin toa thuốc xin bùa, thần tiên cũng cho’. Thiên hạ nghe nói lưu truyền lần ra, nên ngày nọ nhiều người đến am Thuần-dương coi đạo -sĩ thỉnh tiên tới dưng hương chật trong chật ngoài. Quán-Tiên làm bộ lập bàn xông cơ, lúc đỏ đèn niệm chú, phun nước đốt bùa... Một lát cơ lên, đồng bưng cơ, thầy lại coi, viết chữ trên mâm cây vuông đổ cát. Quán-Tiên kêu ai biết chữ lên coi chữ tiên viết, Người biết chữ lên đàn, coi thấy trong mâm cát có bảy chữ lớn rằng: ‘ Ngô Thuần-dương tổ-sư chí hỉ’ và chín chữ nhỏ: ‘ Phàm nhơn khấu vấn giả, tốc tốc lai vấn’. (Nghĩa là: Ta là Thuần-dương tổ-sư đến rồi. Ai hỏi sự chi, mau lên mà hỏi). Ai nấy nghe đọc như vậy, thì rùng rùng lên đàn. Quán-Tiên nói: ‘ Đừng lại đông lắm, hỏi rộn không nên, vô từ người mà hỏi tử tế’. Đạt -Viễn quì lạy vái lớn rằng: ‘Chẳng hay trong đời việc chi quí hơn hết, xin tổ-sư chỉ dạy Cơ viết nhiều chữ nhỏ như vầy:
 

'Thứ nhứt kính đạo -sĩ (thầy pháp) thứ nhì trọng thầy chùa, Đạo -sĩ dâng sớ, cầu đặng sống lâu. Hòa-thượng tụng kinh siêu-độ, đưa vong hồn về Tây-phương. Duy có một chuyện không nên nghe, là thứ Ngọc-lịch bảo ăn năn chừa lỗi làm lành mà trừ tội! Có đâu dễ như vậy! Nhiều người tin khắc bản lưu truyền mà gạt kẻ dốt phải lầm! Nếu ai gặp Ngọc-lịch thì xé mà đốt đi, thì đặng phước lớn’.
 

Người coi đọc rồi, lấy giấy chép ra chưa rồi bài ấy. Xảy thấy hào quang xanh lét chiếu vô đàn, Quán Tiên rùng mình té xuống đất, Đạt Viễn cũng nhào theo. Người chép bài ấy, đứng dựa bàn Lữ tổ, trợn mắt hét lớn rằng: ‘ Ta là Liễu tiên đây! Vưng lịnh tổ sư truyền dạy cho đời rõ: Bởi vì người đời vô phước làm dữ không ăn năn. May nhờ trời nhậm lời Thập vương các thần tâu, ban phát Ngọc Lịch cho Đạm Si đem về, truyền người đời xem mà chừa lỗi, không dám phạm nữa, lời thần tiếng Phật tiên thánh khuyên răn. Thượng đế truyền chỉ Đô thành hoàng mỗi ngày canh phân phiên các du thần ngày đêm soi xét nhơn gian lành dữ. Nay có thầy chùa là Đạt Viễn, thầy pháp là Quán Tiến, dám ganh ghét Ngọc lịch, lên cơ mà giả nói gạt đời. Tội hai đứa ấy đáng đọa địa ngục hành tội cho đến kiếp rồi giam ngoài ngục A tì, không đặng đầu thai. Nếu ai ghét Ngọc lịch, mà không tin, cũng phạt như Quán Tiên Đạt Viễn vậy’. Nói rồi, ngó thấy cơ tự nhiên không ai vịn mà lên, viết 33 chữ như vầy:
 


Tâm bịnh tư tương tâm dược y. 
Huyến nhục huân tính thiểu ngật ta.
 
Thơ trung tự hữu ba la mật.
 
Năng sử oan khiên tận thoát ly.
 
Ngô Liễu Tiên khứ dã


Thích nôm:
 


Bịnh tâm, thời trị thuốc bằng tâm. 
Huyết thịt ít ăn đặng phước thầm.
 
Ngọc lịch thánh thần tiên Phật dạy.
 
Độ đời khỏi đọa, hết mê lầm,
 
Ta là Liễu Tiên đi rồi


Người coi chữ sao chép rồi, bước xuống nói rằng: ‘Hồi nãy tôi chép còn một ít chữ thì hết bài trước. Xảy thấy một ông mặt xanh môi đỏ, lên đàn, bảo tôi truyền lời Lữ-tổ dạy, rồi đằng vân bay mất!’. Ai nấy hãi kinh về hết. Không biết Quán Tiên với Đạt Viễn đâu mất! Cách vài bữa nghe nói Quán Tiên với Đạt Viễn hai người bầm mình la hoài cho tới chết, mới biết quả báo nhãn tiền lẹ quá! Ghê thay!!
 


KINH-TÍN -LỤC 
(truyền Ngọc-lịch, được phước)
 

Người bị chết trôi, lửa cháy, trộm cướp, tai họa, đều đổ tại thời vận, không dè tại mình làm dữ mà ra. Bởi chẳng kiêng trời đất, không tin Tiên Phật Thánh Thần, bất trung, bất hiếu, bất nhơn, bất nghĩa, hủy hoại lúa gạo, bỏ xả giấy chữ nho, sát sanh hại vật, khoe mình hiếp người, mê đờn ca, đắm tửu sắc, theo bài bạc gian lận, nếu phạm các tội ấy, dẫu có khỏi tội dương pháp, thì cũng bị thần phạt mắc tai họa. Nếu in Ngọc -lịch, gặp ai cũng giảng tội phước quả báo, sau thác đã tiêu hết tội, mà còn sống bây giờ cũng được hưởng phước sống lâu. Nay mới nghe cái tích làm lành đặng phước đổi rủi ra may, kể ra sau nầy, đều việc nhãn tiền, thiên hạ có nghe có thấy.
 

Ông Huỳnh-phương-Châu ở huyện Đại hưng, trấn nhậm huyện Khúc Dương, làm quau giáo thọ, vợ cũng làm lành. Khi đương làm việc tại đó, khắc bản kinh Kim cang, kinh Cảm ứng, kinh Âm chất, in mỗi thứ vài ngàn bộ, vợ in Ngọc -lịnh vài ngàn cuốn mà cho người, phóng sanh chim cá không biết mấy muôn ngàn mạng. Sanh năm người con trai, đầu lòng là Thúc Lâm đậu Than hóa, còn bốn người kế là Thúc Kinh, Thúc Kỳ, Thúc Huyển, Thúc Tuyên đều đậu.
 

Mục-quốc-Duy ở huyện Ngộ, đậu Tiến sĩ trào Minh Thiên Khải, ở nhà không làm quan. Hay thỉnh nhiều thiện thơ (kinh lành), thấy Ngọc-lịch liền sao tả cho người thấy, có rách thì dán lại, năm thất mùa thì đâu đậu thí lúa, lúc thiên thời thí thuốc. Con trai là Huệ Viễn đậu Tiến sĩ trào Minh Thuận-trị, cháu tên Đồng đậu Trạng nguyên, Cảnh Tuyên đậu Truyền lô, Kế Nhượng đậu Tiến sĩ. Con của Đồng tên Tảo đậu Bảng nhãn, các chắt đều bổ Hàn-lâm, Tiến sĩ, nối đời làm quan, cũng nhờ bố thí.
 

Bành-nhất-Âm ở huyện Trường châu, gặp thất mùa thì thí lúa, thấy thiện thơ thì in. Con tên là Cần, sao tả Ngọc-lịch dư trăm mà cho người, thi đỗ Trạng nguyên, chắt là Khải Phong cũng đỗ Trạng nữa, bởi nhờ thí Ngọc lịch.
 

Từ trước Đình ở huyện Côn san, làm biện lại với quan Nghiêm văn Tịnh. Khi trấn nhậm tỉnh Chiết giang, dân bị nước lụt. Trước Đình nói nung cho ông Nghiêm văn Tịnh bố thí, cứu sống nhiều mạng. Còn làm phước điều nầy: Lúc trào Minh vua Sùng Trinh, bị loạn, giặc bắt vài trăm phụ nữ, gởi tại Trước Đình bảo giữ giùm. Từ trước Đình lén cho phụ nữ bạc tiền, mà thả đi hết, rồi lập thế đốt nhà mà phi tang, đem bản kinh Ngọc-lịch với gia quyến trốn qua ở huyện Thái dương mà lánh nạn. Thuở nay Từ trước Đình in Ngọc-lịch thí cũng nhiều lắm. Đến thái bình, con trai lớn là Từ kiền Học thi đỗ Thám hoa, làm tới chức Thượng thơ, con giữa là Bĩnh Nghĩa cũng đậu Thám hoa, làm tới chức Thị lang, con út là Nguơn Văn làm tới Thiên quan chủng tể. Năm người con của Từ kiền Học là Thọ Cốc, Huỳnh Thọ Mẫn Thọ, Từ Bình, Từ Tuấn đều thi đậu.
 

Thái bội Lan ở Hồ-châu, ở hiếu đễ (thảo thuận), tiện tặn cho dư mà bố thí, hay thí thuốc cho nhà nghèo, con côi đàn bà góa cậy mượn thì chẳng tiếc. Nếu phụ nữ hoặc trẻ thơ làm mất đồ không dám về nhà, thì cho mà thường lại. Hay cho kinh Ngọc lịch, 84 tuổi không bịnh ngồi xếp bằng mà mãn phần. Lối xóm thấy có Tiên đồng Tiên nữ mời Bội Lan lên xe. Cháu là Khải Tôn, chắt là Thăng Nguơn đều đỗ Trạng.
 

Hùng triệu Đãnh ở huyện Nam-xương, làm thầy thuốc thuở 19 tuổi. Coi Ngọc lịch thấy khoản dung y hại người bị vào Hụơt -đại địa - ngục nên giữ mình trị bịnh kỹ càng và giảng cho thầy thuốc khác nghe nữa. Mình đã in thí, lại rủ nhiều Người, Phàm trị bịnh không nài cực khổ. chẳng luận giàu nghèo Nếu kẻ nghèo không có sậm, cũng tán nhỏ mà cho không. Nhà giàu thưởng bao nhiêu tiền, đều tùy cơ bố thí cho kẻ khó. Gặp năm thất mùa, thì đi bộ coi mạch chẳng nỡ làm tốn tiền xe người. Vợ cũng hiền đức, thuận theo ý chồng, mùa đông bận áo vải cũng không phiền. Đến 80 tuổi, nhằm ngày sanh Triệu-Đãnh, xảy thấy thinh không hiện ra một bức lụa đỏ, thông giữa căn nhà để chữ vàng rằng:
 

Phụng thiên đế mạng, Hùng-triệu-Đãnh phó Phước-kiến tỉnh thành hoàng tử nhậm’. (Vương chỉ thượng đế phong, Triệu Đãnh làm thành hoàng tỉnh Phước-kiến)
 Cách ba bữa mùi hương đầy nhà. Triệu Đãnh tắm gội, thay y phục mới, ngồi xếp bằng mà mãn phần, con cháu thi đậu nhiều đời. 

Trung-mạnh-Cầu làm quan Án-sát trấn tỉnh Hà-Nam, tánh ở thanh liêm có ân oai nhơn chánh. Có khắc bản Ngọc lịch, Âm-chất, văn giới sát của Liên-trì đại sư (nay đem chung vô Ngọc-Lịch rồi). Tánh ghét họa hình tục tĩu, bài thuốc tráng dương, bài thuốc phá thai và đồ nghề bài bạc. Nếu gặp thì hủy hết, ai cáo thì được hưởng. Năm nào thất mùa dân đói thì thí lúa, cho tới xứ khác nữa. Vợ cũng cầm đồ mà phụ với chồng in Ngọc-lịch và thiện thơ. Những kẻ nghèo bệnh đều nhờ ơn hai ông bà. Sanh năm trai đều thi đỗ làm quan.
 
Trương-xuân-Phố nhà giàu mà cần kiệm như nhà nghèo thấy thiện-thơ thì bảo con cháu sao tả cho người. Tánh ở thuần hậu, con cháu hay tả kinh, sau thi đậu tới đời chắt.
 

Tỉnh Chiết-giang phủ Hàng-châu, Từ-văn-Kỉnh làm đại thần mà hay giảng kinh sách tam-giáo, in Ngọc-lịch, có khắc thêm Kỉnh-tín-Lục là các bài nói trước đó mà cho đời. Mẹ ngày nào cũng niệm Phật Quan-Âm. Năm đói thời thí lúa. Sau con làm tới Chủng-tể, các cháu thi đỗ làm quan.
 

Trần-thị là họ lớn tại huyện Hải-ninh lập trại hàng thí quan khách, thí thuốc, thí đất cúng, tối trời thấp đèn ngoài đường đi, thí Ngọc-lịch. Con cháu thi đậu, nổi danh tỉnh Chiết-giang.
 

Tại tỉnh Chiết-giang, phủ Hàng-châu, có bốn họ đại phú là: họ Quan, họ Uông, họ Tôn, họ Triệu, đều nối đời nhơn đức bố thí nên giàu bền không cổi. Họ Quan, cha con thi rồi, về lo giải thiện-thơ, kế nghe báo, cha con đều đậu. Còn họ Uông tới đời nay còn thí thuốc Tử Hà, giàu hoài không cổi. Họ Tôn thí Ngọc-lịch và các thiện-thơ. Họ Triệu thí quan quách quần áo, Bốn họ ấy giàu bền, lại phát quan, là nhờ bố thí làm phước.
 

Lưu-học-Triều ở huyện San-âm, năm Bính Thân, trào Càn-Long dắt gia quyến đến kinh đô đợi bổ ra làm quan. Dọc đường gặp đàn bà bận áo đỏ, nói: ‘ Hồi tôi còn sống, muốn in Ngọc-lịch một trăm bộ, bị ông cản trở hại tôi bây giờ mắc tội dưới Âm-phủ’. Lưu học-Triều hãi kinh nhìn lại, là nàng họ Trịnh vợ của người đầy tớ cũ. Đi tới kinh phát bịnh, hay thấy hồn nàng họ Trịnh đến gây hoài. Vợ là họ Khương hay sự ấy, vái in hai trăm bộ thí cho họ Trịnh. Lưu-học Triều vùng nói: ‘May nhờ ơn Phật tôi được siêu độ’. Nghe in vọng nàng họ Trịnh! Khương thị càng tin, lo in lập tức cúng tại am cô vãi. Cách nửa tháng, hai vợ chồng đồng thấy nàng họ Trịnh về lạy tạ rằng: ‘Nhờ ơn in Ngọc-lịch, tôi đặng đầu thai, Diêm vương chia phước cho bà phân nửa, sau gặp nhiều sự may’.  Lưu-học-Triều thức dậy, liền mạnh. 

Cầu-phục-Sơ ở tỉnh Nam-kinh là người chí hiếu với cha mẹ, Vợ chết, có con là Đại Vinh cũng có hiếu. Tánh Phục-Sơ không tin có quỉ thần địa ngục. Ngày kia đi buôn bán đặng cuốn Ngọc-lịch đem về, cha con coi với nhau, cha gọi nói huyễn nên bỏ dẹp trên gát! Con là Đại Vinh mộ lắm, muốn kiếm bản in ra lưu truyền, sợ cha quở nên không dám. Phục-Sơ bịnh nặng, ngó thấy nhiều con quỉ dị hình tới phá, bèn kêu con mà than rằng: ‘Nay mới biết có quỉ ma địa ngục, ăn năn xưa không tin Ngọc-lịch mà ở theo! Đại -Vinh nghe nói, liền vái in ba trăm cuốn mà lưu truyền, cầu cha mau mạnh. Phục-Sơ nghe quỉ nói: ‘Ông Táo đã đề hai chữ Thuận Tuân trên trán Phục-Sơ, không bao lâu sẽ có chiếu chỉ Ngọc đế đến, chúng ta trốn trước cho mau, kẻo nữa bị quở’. Phục-Sơ liền mạnh.
 

Hạ-kiến-Mô tự Hữu-kiều, ở huyện Tiền-đường, thuật chuyện chiêm bao rằng: ‘ Năm Mậu Dần ta dạy học tại nhà họ Cao, Lúc tháng tư, ta soạn sách cũ trên gác, gặp cuốn Ngọc-lịch, coi rồi thì xét lẽ dạy thì phải, song không chắc thiệt sự như vậy. Nhưng mà thấy lời nói rẽ ròi, tuy kẻ dốt đàn bà nghe cũng dễ hiểu, vậy là một lẽ chánh, khuyên đời làm lành răn dữ như sách nho. Vả lại giá in cũng rẻ nên vái in thí một trăm cuốn. Cách vài ngày xem lại, thấy nhiều lời nói quái gở, mình là người học nho, không lẽ nói cho ai nghe. Nghĩ như vậy nên tính lại không in Đã gần đi thi, không rảnh đâu mà suy xét việc ấy. Vào thi nạp quyển rổi, về nhà ngẫm nghĩ mình đặt hai câu chưa êm, e khi phải rớt, nên trong bụng buồn bực, nằm mơ màng thấy một ông cao lớn, ăn mặc đồ xưa, gò má có triều, râu dài như hình ông Tô-đông -Pha vậy. Ta lấy não bài vở trong trường đưa xin xem thử đâu rớt. Ngài dạy rằng: ‘Ta biết tánh chàng đủ tài đức, khoa nầy chắc đậu còn ngại nỗi gì! Song ngươi đã gặp Ngọc-lịch, sao không in mà cho thiên hạ?’ Ta nhớ trực lại, thưa rằng: ‘ Ngọc lịch e sợ không thiệt chăng?’ Ông già nói: ‘ Địa ngục dưới Âm phủ, là tại lòng người làm phạm các tội nơi địa ngục. Nếu lòng người chẳng phạm các điều ấy thì có địa ngục cũng như không. Mình thông lý sao còn chưa hiểu mà nghi không thiệt? Mau in mà thí, đừng dụ dự hồ nghi nữa? Ta thức dậy, chưa dám nói với ai. Thiệt tới kêu tên mới biết chắc đậu nên in một trăm cuốn và phụ thêm sự chiêm bao vô đây.
 

Tôi là Cao-Lan, tự Nhơn-Hòa ngày 11 tôi qua mừng cậu tôi là Hạ-hữu-Kiều thi đỗ. Cậu tôi thuật chuyện chiêm bao điềm lạ... và đưa bài tự thuật cho tôi xem, tôi cũng lấy làm lạ! Khi ấy con tôi là Hiển Tăng có đậu ba bốn ngày mà không tốt. Đến rằm vợ tôi là Phùng thị, con gái tôi là Trinh-Khanh cũng có đậu nữa. Kế một tên học trò, một con tỉ tất cũng có đậu, tôi lấy làm hãi kinh! Đêm ấy thắp hương đốt sớ chịu ăn năn chừa lỗi, nguyện in ba trăm cuốn Ngọc-lịch cho người và thả 30 muôn vạn cá. Vái rồi không đầy mười ngày mà bốn người mạnh. Còn Hiển Tăng yếu đuối nên chậm hơn, sau ra mũ lỗ tai rồi cũng mạnh. Lấy làm lạ điều nầy: vợ tôi đậu rựng mọc, mà mọc không đặng, thầy thuốc sợ nhập vô làm khổ, kể từ tôi đốt sớ ba ngày, ra mồ hôi ba lần, rồi tiêu mất! Nhờ ơn thần phò hộ bình an là vì vái in Ngọc-lịch mà linh nghiệm như vậy mới tin cậu tôi thấy chiêm bao là điềm thiệt, nên khắc thêm sự tôi vào đây, cho thiên hạ biết. Nhằm tháng 9, vua Gia-Khánh 23.
 

Kinh Ngọc-lịch lưu truyền đã lâu. Ông nội tôi là Văn-Kỉnh có khắc bản in thí, ai tin làm theo đặng gặp phước đều khắc thêm vào đây rồi. Năm ngoái Hạ-hữu-Kiều thấy chiêm bao, in một trăm bộ. đưa cho tôi một cuốn, tôi động lòng muốn in thêm, ngặt lúc không dự, Năm nay thi đỗ, thân hữu lễ mừng, tôi đều lấy mà in một trăm cuốn và khắc thêm lời nầy vào đây. Từ-Chương ở huyện Tiền-đường, ghi tháng mười, năm Kỉ-Mảo Năm Mậu-Dần, Hạ-hữu-Kiều làm chức Hiếu liêm, qua Tô-châu cho tôi một bổn Ngọc-lịch, tôi coi tới câu: ‘ Địa ngục là tại lòng.' Tôi ngẫm nghĩ ra lý quả báo. Qua năm Kỉ-Mão cháu lớn tôi bịnh nặng tôi vái in Ngọc-lịch cầu cho cháu mạnh, thiệt quả đặng sống. Tháng hai năm nay, con trai lớn tôi là Lượng-Dần đau chứng yết hầu gần chết, tôi vái trời xin cho con mạnh, thì in Ngọc-lịch phái liền. May ra mồ hôi mà mạnh đổi họa ra phước, nên cám ơn trời phật thánh thần. Khi trước tôi gởi cho bằng hữu qua Hàng-châu in ba trăm bổn nữa, có khắc in thêm khoản nầy cho các nơi khác. Kinh nầy đáng kính, nên tôi ghi vài lời xin các vị thiện tâm rán rủ in ra khuyên đời, thì đặng phước nhiều lắm. Khi ấy niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ nhứt là Tân-tị, tháng tám. Cát-võ Điền hiệu Du -nhuận đương ngụ ở Tô Châu đề.
 

Niên hiệu Dạo-Quang năm Quí-Tị, mùa thu, tôi là Phan-quang Thọ ở sông Tiền đường, bởi em bạn dì tôi là Châu-phước-Tăng, Táo-thủ-Tăng khắc bản khuyên tiếc lúa gạo, trọng giấy chữ, lại tính khắc Ngọc lịch in cho đời. Tôi nói: ‘ Sự địa ngục là u minh, không đáng tin. Vả lại muốn lượm giấy chữ đà tốn hao, khắc bản tốn nhiều, vô ích’. Hai anh em nghe tôi nói thôi làm. Qua mồng ba tháng giêng, năm Giáp Thân (năm sau), tôi chiêm bao đến chùa Văn Xương đế quân, kêu tên thì vào hầu. Tôi vào quì lạy. Phán quan nói lớn rằng: ‘ Ngươi đã chẳng tin thì thôi, sau cản người làm lành?’
 

Tôi tâu rằng: ‘ Thuở nay tôi không cản ai làm việc lành’. Phán quan hét lớn rằng: ‘ Ngươi quên sự cản khắc bản Ngọc-lịch sao? Ngươi hãy nói nhiều chuyện nên trễ đậu tú tài đã mười năm và chết nhiều đời vợ ; nếu còn nói điên như vậy, thì thấy chết yểu! Như biết ăn năn, nguyện khắc bản kinh, khuyên đặng ngàn người chừa lỗi làm lành sắp lên, thì tiêu tội trước, mà được phước sau’. Ta giựt mình thức dậy, mồ hôi dầm mình! Song còn nghi mộng mị không chắc. Vả lại nhằm dịp Tết, bằng hữu rủ chơi bời, nên chưa lo khắc bản. Qua 27 tháng sau, ta thổ huyết hai búng, mệt xỉu! Thấy phán quan khi trước, mặt giận nạt rằng: ‘ Ngươi mới ăn năn rồi cũng quên nữa, nay họa đến rồi! Bữa sau tôi kêu hai người em mà nói các điềm ấy nguyện ăn chay bảy ngày, mướn nhiều thợ khắc rút, mười ngày rồi bản nầy, khắc thêm sự mình in luôn cho người, xin thiện nam tín nữ rán khuyên đời ăn năn hoặc vẽ ra bức Thập điện theo trong kinh mà treo trên vách, ngó thấy mà giựt mình, năng coi năng đọc Ngọc lịch mà sửa lòng chừa lỗi, làm lành lâu ngày thì có phước. Nếu chẳng tin. e phải bị gương tôi. Phan-quan-Thọ ở huyện Tiền-đường đề.
 
Tiên Phật hay nói nhơn quả, còn kẻ học nho hay chê là dị đoan! Sao chẳng xét? Thích là Phật, đạo là tiên tuy dạy khác đạo Nho của thánh song cũng dạy người làm lành như nhau, nên tam giáo như một. Tôi xem hết cuốn Ngọc-lịch, ý dạy cũng như sách Nho, mà nói rành rẽ dễ hiểu, không cần văn chương đối đáp, miễn cho đời dễ hiểu mà ở thì hơn, tới đám đàn bà con nít cũng nghe chung đặng nữa. Người đời ít kẻ văn học nên bảo ở nhơn nghĩa trung hiếu thì mấy ai hiểu thấu mà làm, chi bằng Ngọc-lịch nói sự báo ứng, làm điều chi được phước, ở làm sao thì mang họa, người thấy giựt mình mà hồi tâm. Mới coi thì là lời khuyên răn, xét kỹ thiệt dạy đường đạo đức, phải là gìn lòng sửa nết cho nên người trung hiếu nhơn nghĩa chăng? Như vậy thì công lớn lắm, có phải thua sách nho đâu? Niên-hiệu Gia-Khánh 22 là năm Dinh-Sửu, mùa xuân ghi lời bạt (không để tên).
 


KHUYÊN PHỤ ÍT LỜI 
(cũng không đề tên)
 
Lành dữ người đã làm, phước họa trời không vị. Biết lành đáng làm mà không làm, sao phải người lành. Biết dữ đáng chừa mà không chừa, thiệt là tội dữ. Sự quả báo ai mà không hiểu? Sao lại không làm phải can tâm làm quấy mà chịu trầm luôn! Người đời nhờ cơm mà sống nếu có hơi muốn thiu, thì đem đổ, có khi đạp. cơm cháo cũng không sợ tội. Nếu kẻ ăn mày, đặng cơm cháo thiu ấy mà ăn, cũng sống đỡ một lát. Đồ ăn ngon vào bụng thì hóa đồ dơ, sao lại chê cơm nguội! Huống chi kẻ làm ruộng gần bên lúa gạo cực khổ trăm bề, mình có mà ăn, lại hủy hoại như vậy, tội biết chừng nào? Họ ăn mì hay đổ nước, sao không nghĩ đồ vụn, cũng là cơm cháo, nếu chừa cặn, thì tôi tớ nó đổ nơi chỗ dơ! Nếu không ăn nước, thì vớt mì vụn mà ăn cho hết. Nếu huỷ -hoại cơm cháo vật thực thái quá, e bị Lôi -công. Kinh nói cữ sát sanh, hoặc phóng sanh, là nói vật lớn: còn ta nhắc vật mọn cho đời nhớ. Người hay nuôi chim, như chim quyên nhồng sảnh keo két cưỡng sáo, các loài chim hay ăn trùng dế cào -cào, châu chấu v.v...  thường ngày phải bắt vật các ấy mà nuôi nó kêu nó nói cho êm tai mà thôi, chẳng kể giết không biết mấy muôn ngàn mạng vật mọn mà nuôi nó, trong lương tâm đành đoạn hay sao? Còn người gọi ốc là rẻ nên hay ăn song thiếu chi vật rẻ tiền, mà phải ăn ốc? Một bữa ăn hơn vài trăm mạng! Đáng lẽ đã cữ, lại mua ốc mà phóng sanh, đặng chuộc tội trước. Còn ăn cá là thường, song những cá nhiều trứng, nếu trứng cá tươi, chưa vấy muối, để lâu cũng còn nở. Sao không dặn kẻ nấu ăn, nếu làm cá gặp trứng thì lấy bao đất mà bỏ xuống sông, mình nhín ăn một đũa mà phóng cả ngàn mạng cá con (ấy là lời ông Lữ đồng Tân giáng cơ có dạy). Phóng sanh thế ấy khỏi tốn tiền mà phước lớn lắm. Nếu vì một miếng ăn mà chết trăm ngàn trứng cá sao đành, dầu vật mọn cũng vậy.
 

KHUYÊN ĐỪNG MÊ TỬU SẮC TÀI KHÍ 

Rượu chớ uống nhiều, nhiều thì say, say thì hư việc cả.
 
Sắc chớ ngó nhìn, nhìn thì mê, mê thì mắc tội đầu.
 
Bạc chớ tập đánh, đánh thì tham, tham thì thâm vốn liếng.
 
Giận chớ làm dữ, dữ thì đánh, đánh thì bị lao tù (củ).
 
(Phủ): Kiêng rượu không say, giữ tánh thường.
 
Đừng mê hoa nguyệt, chẳng tai ương,
 
Không theo bài bạc, còn gia sản.
 
Giận tức mà dằn, hoạ khỏi vương (Hành tố).
 

TÍCH NGƯỜI KHÔNG TIN GIÁNG CƠ 

có người kia thấy thỉnh cơ thì không tin, nói bày đặt lên giả. Lúc đó cơ lên xưng Ngọc -Hổ tiên sanh. Va cười! Cơ viết bài thơ 8 câu, va thất sắc, quì lạy. Cơ nói nàng ấy đã thôi ở lầu xanh, có chồng rồi, ngươi đặt thơ gởi âm phủ có lục bài thơ, ta thấy làm án nặng, viết cho ngươi sửa nết, y hoảng, vì mới đặt não chưa gởi mà thần tiên hay. Năm sau y thác. Tám câu thơ y sau đây:

Tử quỉ bay hoảng khóc tàn canh. 
Đoái lại Chương đài cụm liễu xanh.
 
Hoa nở có kỳ tằm ruột đứt,
 
Mây tan không ngỡ bướm hồn đoanh (giấc điệp)
 
Nhớ chừng ngõ phớt xô khuôn cửa.
 
Quá chén cười mơn nựng bức tranh.
 
Còn ấp tì bà năm trước chẳng?
 
Tầm Dương tình cũ trả lời rành?
 

BÀI THỜ KẾT: 

Trần làm gia chánh sách nêu danh:
 
Hành thiện tu tâm tại học hành.
 
Tố vị giàu nghèo dùng phải tố.
 
Thanh liêm phận sự giữ cho thanh.
 
Phước nhiều bởi dạ làm lành lắm.
 
Đạo cả nhờ kinh giảng nghĩa rành.
 
Nhơn đạo xong rồi tiên đạo có.
 
Kỳ công chừa quá bước mây xanh.
 

PHỤ DỊCH 

LỜI TỰA DƯƠNG-PHÁP -TRÌNH IN KINH NGỌC LỊCH 

Quan-đế giáng bút tại đàn nhà Dương-pháp -Trình, bảo in Ngọc lịch phải thêm 20 khoản hựu tội của Lữ Tổ xin phép Đại -Sĩ với Địa tạng mà giáng cơ và có các tiên giáng.
 

LỮ TỔ PHỤNG SẮC GIÁNG BÚT 

và chú giải 20 khoản
 
Ta là Thuần -Dương đặt 20 khoản xin ân xá, nhờ Quan-âm Địa -Tạng nhận lời tâu lại, nên truyền chỉ cho ta phải phụng chỉ Thế -tôn Như lai truyền dụ 20 xá khoản. Nếu ai lương thiện, làm theo 20 khoản ầy, thì thành Phất tiên thánh, hiền. Nếu kẻ dữ, thấy 20 khoản nầy, thề cải ác, ở theo điều lệ đây, thì khỏi luân hồi trả quả. Ta giáng bút sau đây:
 

1. HIẾU: Con có hiếu với cha mẹ là điều lành trước hết, học trò có hiếu thì thi đỗ. Nếu ai bất hiếu thì trời phạt khốn khổ, tai nạn, chết tật bịnh, chết yểu (chết cách dữ). Dầu người tu tam giáo cũng vậy, hiếu thì siêu, bất hiếu thì đoạ. Sự hiếu đã hết lòng phụng dưỡng, biết có cha mẹ chớ không biết có mình, phải cung kỉnh chịu lụy thiệt tình cho song thân đẹp ý. Nếu cha mẹ bất bình thì con mang bất hiếu. 

2. KỈNH: Kính sợ trời Phật thánh thần, nên không dám làm việc quấy, lòng kiêng sợ là kỉnh, không phải lạy cúng là kỉnh. Như kỉnh kiêng phép nước, không dám phạm phép luật, chớ không quì lạy. 

3. TRUNG: Như tôi ra trận, liều mình trả ơn chúa. Còn quan gián nghị can vua không tiếc mạng. Quan Trấn thanh liêm, thương dân, mảng lo việc nước mà quên việc nhà, vì hết lòng hết sức. Tôi tớ phải hết lòng trung với chủ nhà. Bạn bè trung tín với chủ tiệm. Người thay mặt trung với chủ. Còn như tá điền lo lúa ruộng, dân lo xâu thuế nước, cũng gọi là trung (hết lòng). 

4. NGHĨA: Là sự phải lẽ, không làm trái lẽ, chẳng dám quên ơn, không làm việc quấy. Xử cho phải nghĩa là quân tử. 

5. THỦ: Giữ bổn phận bền chí cho qua thời, không vì nghèo nàn mà đổi tiết, Phải thủ thân vì trọng, không dám làm cho hư thân thể mình, thủ khẩu không dám nói tổn đức. 

6. NHẪN: Nhịn dằn thì được phược khỏi hoạ. Như Lâu sư Đức, Trương công Nghệ, Lưu Khoan. Nếu không nhịn, thì chẳng hoà. 

7. ĐOAN: Ngay thẳng, một sự ngay thẳng thì không tội. không nhập bọn tà vạy, cứ chánh trực công bình, sẽ thành thần thánh. 

8. PHƯƠNG: (Vuông): Ở có mực thước, làm việc vuông tròn. 

9. NHƠN: Ở có nhơn là hay thương xót, chẳng nỡ hại người hại vật, mình no mà người đói không đành, hay làm ơn phước. 

10. HẬU: Ở có hậu, thì không vong ân bạc ngãi, không khắc bạc ai hết. Người có ân hậu là người hiền lành lắm. 

11. BẤT KIÊU BẤT TRÁ: Chẳng kiêu chẳng gạt: giàu cũng không khoe khoang, giỏi cũng không kiêu ngạo. Châu-công là bực thánh, làm ngự đệ mà còn chẳng dám kiêu. Kiêu như Thạch -sùng, giàu cũng mắc họa. Còn không dối thì là chơn thiệt, chẳng gạt ai, chẳng thất ngôn thất tín thì khỏi phạm vọng ngữ, chơn thiệt mới thành. 

12. BẤT THAM BẤT SÂN: không tham không giận, Tham thì sanh giận, giận thì sanh dữ, nên tam giáo đêu cấm hai điều ấy. Qang-âm nói: 


Sân thị tâm trung hỏa, năng thiêu công đức lâm, 
Dục hành bồ tát đạo, nhẫn nhục hộ chơn âm.


Thích nôm:
 


Giận thiệt lửa trong lòng, như thiêu hết đức công. 
Muốn theo bồ tát dạy, dằn nhịn dạ như không.


13. BẤT KHÍ BẤT VÕNG: Không dối, không ngang. Không dối thì lòng công, không ngang thì khỏi phạm thượng, giữ tánh khiêm nhường. 

14. BẤT TÀ BẤT DÂM: không vạy, không tà dâm. Lòng không chánh là tà, không phải thê thiếp mình, mà muốn là tà dâm (dâm ác) chẳng nên thấy sắc tốt mà sanh lòng tà dâm vọng tưởng. 

15. TƯƠNG THÂN TƯƠNG MỤC: Thương nhau, hòa nhau. Lòng thân là tưởng không ghét ai, hòa là không gây tung với ai. Coi bốn biển như một nhà, coi thân ai như thân này. thương người như thể thương ta. 

16. ĐỒNG THIÊN ĐỒNG THÀNH: Mình lành khuyên người làm lành, mình thiệt tình, khuyên người thiệt tình cũng hết lòng thành như mình. 

17. HÓA KỶ HÓA NHƠN: Sửa mình cho thành đức, rồi lo dạy người sửa người đặng đức hạnh như mình, không tiếc công dạy. 

18. HÓA ĐẠO HÓA NGHĨA: Giữ theo đạo luân hồi, xử cho phải nghĩa, 
hay trượng nghĩa giúp người, nhứt là bằng hữu sửa lỗi nhau.
 

19. QẢNG KHUYẾN QUẢNG HÀNH: Rộng khuyên, rộng làm. Mình khuyên người làm lành làm phải, mà mình cũng làm ơn làm phước cho nhiều. 

20. VÔ PHI, VÔ THỊ: Không sanh việc thị phi. Nếu lòng ở công, không phân người phân ta, nói người phải mình quấy, thì không sanh việc thị phi. 
Nên giữ được 20 điều ân xá thì siêu.
 


ĐỊA -TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT GIÁNG BÚT 
(Tựa Công-quá-cách)
 

Người đời không cho con học chữ nho, nên không thông đạo lý. Cứ tưởng cúng chùa dưng hương là lành, rước sãi thầy tu tụng kinh làm chay thì siêu độ vong hồn đặng! Các điều ấy có phải làm lành làm phước đâu? Làm lành là làm phải lý, lại khuyên người làm phải, thì trời xuống phước. Ta thấy người đời ở với cha mẹ không hiếu gì, cha mẹ mãn phần thì nói: ‘ Sa địa ngục rồi! Phải rước sãi làm siêu độ!’ Các sãi bày ra làm mị, như gởi kho vàng bạc, phá ngục, bong đầu phướng đặng tiếp dẫn vong hồn lên Tây phương. Có lẽ gì thọc cây tre mà phá đặng địa ngục? Nếu quả như vậy, thì kẻ giàu sang làm dữ, thác rồi con cháu rước đông sãi tụng kinh niệm Phật thì vong ra khỏi ngục sao? Người hiền lành mà nghèo, không tiền rước sãi làm như vậy, thì không ra khỏi ngục sao? Như vậy trời đất cũng vị nhà giàu mà hà hiếp nhà khó hay sao? 

Còn như Phật ở Tây phương, công đâu mà vị nhà có tiền phải cứu vớt? Tâm là Phật, tâm là thiên đường, lòng lành thuận lòng trời thì cầu vong khỏi tội, lòng chẳng lành nghịch lòng trời thì cầu không đặng. Nếu không làm phước cứ mỗi ngày rước thầy tụng kinh cầu siêu hoài, Phật muốn cứu cũng không lẽ cứu được. Ta cũng là Phật lẽ đâu không hiểu phép. Làm lành tuy không cầu Phật mà Phật cũng phò hộ. Nếu làm dữ, có lạy Phật cho đến sói đầu, cầu cũng không đặng. Ta khuyên đời nghe lời ta, cứ ở theo luật Công quá cách, đừng làm các điều dị đoan trái lẽ, tuy chẳng cầu ta cũng độ vọng, không cần rước sãi. 

VĂN-ĐẾ BÁ-TỰ-MINH (GHI TRĂM CHỮ DẠY ĐỜI) 

Quả dục tinh thần sảng Dục ít tinh thần khoẻ.
 
Đa tư huyết khí suy, Lo nhiều khí huyết phai.
 
Thiểu bôi bất loạn tánh. Vài chung khôn loạn tánh.
 
Nhẫn khí miễn thương tài. Một nhịn khỏi hao tài.
 
Quí tự tân cần đắc. Sang tại siêng năng, đổ.
 
Phú tùng kiệm ước lai. Giàu nhờ tiện tặn dai.
 
On nhu chung hữu ích. Dịu mềm sau có ích.
 
Cường bạo tất chiêu tai, Hung dữ sẽ mang tai.
 

Thuận xử chơn quân tử.
 
Khiêu toa thị họa tại.
 
Am trung hưu sử tiễn.
 
Qai lý Phóng ta ngai.
 
Dưỡng tánh nghi tu thiện
 
Khi tâm mạt ngật trai,
 
Nha môn hưu xuất nhập
 
Hương đảng yếu hòa hài.
 
An phận thân vô nhục.
 
Nhàn phi khẩu vật khai.
 
Thế nhơn y thử khuyến.
 
Nạn thối phước tin hồi.
 
Khéo xử nên quân tử,
 
Xui mưu rấm họa thai.
 
Chốn thầm đừng bắn lén
 
Cảnh nghịch giả ngây hoài.
 
Tánh tốt gìn tam thiện.
 
Lòng gian uổng thập trai.
 
Nha môn đừng kiện cáo
 
Làng xóm chớ chê bai.
 
Bổn phận nương cơ tạo.
 
Thị phi lấp lỗ tai.
 
Lời nầy ai giữ đặng.
 
Nạn khỏi phước lâu dài.
 


ĐƯƠNG -THỦ TRAI -KỲ 
(một năm ăn chay 61 ngày vía lớn)
 

Bốn ngày tháng giêng: mồng 1, lệ tế trời và vía Phật Di -Lạc, (vái...) Mồng 8 vía Ngũ -điện Diêm La Vương (vía ăn năn làm lành như mồng 1). Mồng 9 vía Ngọc-hoàng thượng đế (bái cải quá...) Rằm Thiên quan đại đế.
 

Sáu ngày tháng hai: Mồng 1 vía Nhứt điện Tân -quáng vương (nguyên y Ngọc lịch ). Mồng 2 vía Thổ địa chánh-thần. Mồng 3 vía Tử -đồng Văn -xương đế quân. Mồng 8 vía Tam điện Tống đế vương (vái...). Rằm vía Thái thượng Nhạc nguyên soái (tụng Cảm ứng). 19 Quan-âm, (tụng Phổ môn Cứu khổ, Cao-vương). 

Sáu ngày tháng ba: Mồng 1 vía Nhị -điện Sở-giang-vương (vía...). Mồng 2 Chơn -Võ Huyền thiên thượng đế (nguyện tụng kinh Báo ân). Mồng 8 vía Lục điện Biện -thành -vương (vái...). Rằm Lôi -đình đại tướng. 16 vía Chuẩn -đề Bồ -tát. 27 Thất điện: Thái sơn vương, 28 Đông -nhạc đại -đế. 

Năm ngày tháng tư: Mồng 1 Bát đẳng vương (vái...) Mồng 8 Cửu điện Đô thị vương (vái...) 14 Lữ Tổ Rằm Thích -ca Như -lai (tụng Kim -cang). 17 Thập -điện Chuyển -luân xương (vái...) 

Sáu ngày tháng năm: Mồng 1 Nam-cực tiên ông. Mồng 5 
Lôi đình Đặng thiên quân, 11 Đô-thành - hoàng. 13 Quan Thái tử, (14, rằm 2 ngày cấm phòng).
 

Bốn ngày tháng sáu: Mồng 1 Rằm 19 Quan-âm thành. 23 Quan đế Linh quan. 

Bốn ngày tháng bảy ; Mồng 1 ngày sóc. Rằm Địa -quang đại đế. 18 Diêu-trì Tây vương mẫu. 30 Địa tạng vương (vái...). 

Bốn ngày tháng tám: Mồng 1 Diệu -tế chơn-quân, Mồng 3 Táo -quân (tụng kinh...) Rằm Thái âm hoàng hậu (tụng thái -âm). 24 Táo mẫu (bà Táo) tụng kinh ông Táo). 

Bốn ngày tháng chín: Mồng 1 Nam-đẩu. Mồng 9 Phong đô đại đế, 13 vía Mạnh -bà. Rằm ngày vọng. 

Năm ngày tháng mười: Mồng 1 Đông-hoàng đại -đế. Mồng 8 Niết bàn (phóng sanh). Mồng 10 ngày cấm phòng. Rằm Thủy quan đại đế. 30 Châu tướng quân (ông Châu). 

Bảy ngày tháng mười một: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 4 Khổng tử thánh nhơn. Mồng 6 Tây nhạc đại đế. Rằm ngày vọng. 17 A Di Đà Phật (tụng Di Đà). 19 Thái dương (tụng kinh Thái dương), 23 Trương tiên (Phàm vía này, vía Linh quan Thái tử, ông Châu, vía ông Quan đế, đều tụng kinh ông ; Minh thánh Vĩnh Mạng). 

Sáu ngày tháng chạp: Mồng 1 ngày sóc. Mồng 8 Thích ca. Rằm ngày vọng, 23 đưa ông Táo chánh vía 24, 30 chư Phật giáng thế. 
Tháng nào thiếu, 29 thế 30. Tháng nhuần tính theo tháng trước.
 
Nếu ai ăn chay vía trước nhiều không nổi, thì giữ chay nầy.
 

BÀI SÁM HỐI QUÁ, TIÊU TỘI NHỰT KỲ 

Trần -huyền -Trang là thầy Tam-Tạng thỉnh kinh Tây-phương về, có dưng sớ cho vua Đường Thái -Tôn, mỗi tháng có một ngày nhằm giờ lay sám hối cho nhằm hướng chư Phật hội nghị. Vái nguyện ăn năn chừa lỗi cữ và nguyện làm phước mới cho tiêu tội. Chẳng phải lạy không mà trừ tội đặng. Phật cho hối quá tùng thiện.
 

Tháng giêng, tảng sáng ngày mùng 1, lạy hướng nam 4 lạy, vái.' 2, mùng 9, 5 giờ sáng, lạy hướng nam 4 lạy, nguyện.’ 3,’ 7, tối 10 giờ, lạy hướng tây 4 lạy, tháng 4, mùng 8, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng đông 4 lạy, nguyện’ 
' 5,’ 3, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy,’
 
' 6,’ 7, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng nam 4 lạy,’
 
' 7,’ 6, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy,’
 
' 8,’ 8, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy,’
 
' 9,’ 9, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy,’
 
' 10,’ 1, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy,’
 
' 11,’ 3, đỏ đền, lạy hướng tây 9 lạy,’
 
' chạp’ 3, mặt trời lặn, lạy hướng tây 9 lạy,’
 

Ngày ấy ăn chay niệm thầm: Nam mô A-di-đà Phật, đặng lấy câu lạy mấy câu. Chừng lạy, thắp nhang ba cây, căm trên hương, nhắc ghế (bàn) để ngay hướng đó, có đèn cũng đủ, à quả tự ý, không ngơ cũng được. Bận áo dài, đứng chắp tay iệm 6 chữ Di-đà 100 câu, ít nữa 10 câu. Rồi vái tên họn mình gày nay nguyện cải ác tùng thiện. Ở theo Công-quá -cách, cầu êu tội cũ, mà nhờ phước trời Phật thánh thần cho, rồi lạy y số. ân hương, dẹp bàn ghế, niệm Phật. Làm được như vậy ba ăm, thì cảm động bề trên, trong nhà bình an, tai qua nạn khỏi, làm hoài chung thân, sống được phước, thác khỏi tội. Cũng như lặt bàn lạy vía Thập -vương, lạy Thập -vương cứ hướng bắc.
 


VĂN-XƯƠNG ĐẾ QUÂN GIÁNG CƠ DẠY CẦN GẤP 

Ta đã thấy chiếu chỉ Thượng -đế ban cho Bắc -đế (Huyền hiên Thượng -đế) nội tháng chạp, dẫn âm binh đi tra xét tội bất hiếu mà phạt, có hiếu thưởng phước, là xét các mồ mả tử tế, thì là coi con cháu là tên họ gì mà lo cho cha mẹ ông bà, thì hưởng phước lộc thọ gọi là thưởng thiện (hiếu). Nếu mả nào hoang lạnh, tồi tệ, bỏ bê thì tra ra con cháu bất hiếu, thì phạt tai hoạ, bịnh hoạn, nghèo khổ thác yểu. Tùy theo hư nhiều ít ; mà hạt nặng nhẹ. Tại con cháu không biết cội rễ, nên phạt gia đạo hông an. Vì Huyền -thiên thượng -đế là giáo chủ việc báo ân, nên in thưởng có hiếu và phạt bất hiếu. Nên ta cho đời hay trước là giữ.
 


KHẮC BẢN NGỌC -LỊCH, THỈNH TIÊN CHO TỰA 

Lữ Tổ giáng bút: 

Người đời làm dữ thái quá, nhờ ơn Địa -tạng truyền chỉ Phong-đô, Thập -vương dọn Ngọc -lịch, xin chỉ Thượng -đế, ban phát trung giới cho người ăn năn chừa lỗi, làm phước đền tội. Lúc đời Tống, nhằm nước Liêu niên hiệu Thái -bình năm Canh-ngũ, sãi nước Liêu là Đạm Si lãnh về, giao cho Phạm nhứt Chơn là Vật Mê đạo -nhơn truyền cho đời. Sau ta đã dọn 20 khoảng xin chỉ ân -xá, giáng bút đem vào sau Ngọc -lịch. Thượng -đế truyền chỉ các thành hoàng mỗi ngày Canh-thân sai du thần đi xét những người tin Ngọc -lịch ăn năn chừa lỗi làm lành, thì cho tiêu tội, ai khắc bản in thí thì cho phước, có bịnh hứa in mà cầu tiêu bịnh lượng theo số mà cho. Bất luận cầu việc chi, cũng cho nguyện in thứ Ngọc -lịch cho nhiều thì đặng. Nay khắc bản thêm, xin ta cho tựa ta nói thêm ít lời. Sự thiên -đường địa -ngục rõ ràng, đừng nghi không có, cứ làm dữ mà mang khổ. Y theo Ngọc -lịch, ăn năn chừa lỗi, làm lành làm phước chuộc tội, công lớn thì theo tiên Phật thánh thần, dư phước đức con cháu được hiển vinh miên viễn. Lành ít sau khỏi sa địa -ngục, đầu thai hưởng phước. Khuyên đời chớ hồ nghi.
 


LIỄU -TIÊN GIÁNG CƠ TỰA CHÓT 

Thượng -đế cho tựa kinh nầy là Từ -ân Ngọc -lịch, nghĩa là như lịch ngọc thường ngày xem, ban ân xá, tha tội kẻ ăn năn. Nếu làm một phước cho trừ hai tội cũ. Làm dư phước thì Táo -quân tâu thưởng nhiều sự may, vân vân.
 


HỒI -DƯƠNG BIÊN HOẶC 

Trào Thanh Nhơn -quả Hồi -dương,
 
Tự -Kỳ tâu hỏi, Minh -vương phán rành:
 
Là vua Nhứt -điện U-minh (Tần -quảng -vương)
 
Dạy việc tu hành chỉ nẻo siêu thăng:
 
' Ngũ -luân là đạo lẽ hằng,
 
Tam cang, huynh đệ, hữu bằng năm phe,
 
Thảo, ngay, chồng bảo vợ nghe,
 
Anh em yêu mến bạn bè thiệt tin.
 

1. TRUNG: Làm quan trung với triều đình, 
Quên nhà vì nước, quên mình vì dân,
 
Công bình chẳng vị tư ân,
 
Xứng ngôi chức phận, vẹn phần thanh liêm.
 
Còn như dân dã trọn niềm:
 
Lo xong xâu thuế, giữ nghiêm luật điều.
 
Gìn lòng trung tín mến yêu,
 
Không lời phạm thượng, giữ điều tôn quân.
 
Khuyên người noi đạo Ngũ -luân,
 
Sửa nền phong hoá, dạy lần ngu ngoan.
 

2. HIẾU: Cha con đứng giữa tam cang, 
Đạo làm cha mẹ, dạy đàn trẻ thơ.
 
Đừng cho hoang đảng bạc cờ,
 
Nông thương nghề nghiệp, thi thơ học hành.
 
Cưng hư thời uổng công sanh,
 
Dạy nên là việc tu hành với con.
 
Làm con chữ hiếu vuông tròn,
 
Một lo thi đỗ, tông môn rỡ ràng.
 
Hai lo thần tĩnh mộ khan,
 
Giàu ra công khó, nghèo càng dưỡng nuôi,
 
Kính thờ cha mẹ đồng vui,
 
Hết lòng hết sức, lo nuôi lo đền.
 
Thần mình cha mẹ gầy nên,
 
Giữ cho toàn vẹn, như đền cù lao.
 

3. HÒA: Thứ ba chồng vợ làm sao? 
Chồng ra xử thế, vợ vào tề gia.
 
Giàu nghèo cũng ở thuận hoà,
 
Xướng tuỳ phải đạo, vào ra giữ lời.
 
Phần chồng dạy vợ ở đời,
 
Làm dâu vẹn thảo, đãi người trọn ân.
 
Bạn dâu hòa thuận mười phần,
 
Bà con yêu dấu, xa gần ngợi khen,
 
Lòng chồng chớ ở bạc đen,
 
Nhan sắc là hèn, đức hạnh là hơn.
 
Chớ mê tiếng quyển tiếng đờn,
 
Cũ vong mới chuộng, đèn hơn trăng lờ.
 
Đàn bà giữ vẹn một thờ,
 
Tháng đợi năm chờ, chồng chúa vợ tôi.
 
Kinh chồng, hiền đức vô hồi.
 
Sắt cầm hoà thuận, đắp bồi gia cang.
 

4. ĐỄ: Thứ tư huynh đệ yêu đương, 
Ấy là chữ đễ, cũng ngang chữ hoà.
 
Thịt xương một chỗ mà ra,
 
Anh dầu bị khổ, em đà chẳng an.
 
Em may anh nở lá gan,
 
Anh mà đau nhức, em càng xót xa.
 
Anh em yêu mến thuận hoà,
 
Mẹ cha đẹp ý, ông bà mát gan.
 
Mồ côi càng chạnh trăm đàng,
 
Nhìn xem thủ túc, mơ màng xuân huyên.
 
Thương anh như mến cha hiền,
 
Nếu phiền huynh đệ, như phiền mẹ cha.
 
Anh em ai dẫu bất hòa,
 
Bị người đánh chửi, cũng ra binh liền.
 
Bởi vì thiên hiệp tự nhiên,
 
Anh em cha mẹ căn nguyên tại trời.
 
Trời xanh không thế đổi dời,
 
Khó tìm cha mẹ, không rời anh em.
 
Vợ, con, người chọn mắt xem,
 
Nối đây dễ quá, sanh thêm khó gì?
 
Ấy là nhơn hiệp lạ chi,
 
Chớ khinh huynh đệ mà vì vợ con.
 
Mẹ cha anh chị vuông tròn,
 
Anh em bực nhứt, vợ con bực nhì.
 

5. TÍN: Thứ năm bằng hữu trọn nghì. 
Giúp giùm sửa lỗi, yêu vì khuyên nhau.
 
Nội nhà ngộ biến lòng đau,
 
Có khi bằng hữu giúp nhau được toàn.
 
Việc nhà khó nỗi trở đang,
 
Có khi bằng hữu giúp cang đặng hòa.
 
Vậy nên chỉ tín đừng ngoa,
 
Càng lâu càng mặn, rán la rán giùm
 
Chọn người tài đức yêu dùng,
 
Khuyên lơn làm phải, chung cùng giúp nhau
 
Năm điều vẹn giữ trước nhau
 
Tu ròng ngũ đạt, đạo mầu nhứt tâm
 
Năm điều giữ vẹn chẳng lầm.
 
Thì là hành đạo phải tầm kiếm đâu?
 
Trẫm đà truyền đủ đạo mầu,
 
Người khuyên thiên hạ rán tu cho thành,
 
Ấy là chánh phép tu hành,
 
Tại gia cũng đủ bao đành xuất gia.
 
Gái trai lớn bé trẻ già,
 
Sang hèn giàu khó đều là phải tu.
 
Gồm tam giáo: Thích, Đạo, nhu (nho),
 
Ai tu cũng đặng người tu thời thành.
 
Làm người tùy sức tu hành,
 
Cảnh nào cũng vậy lòng lành bấy nhiêu.
 
Tuy giàu, nhưng khó chẳng kiêu,
 
Dầu nghèo như khá, chẳng điều gian hung,
 
Ở đời biết xét hay dung,
 
Trị nhà nhẫn nhịn, đủ dùng tu thân,
 
Sự nào mình phải mười phần.
 
Xét ra còn lỗi một phân sửa liền.
 
Việc chi người quấy cả thiên,
 
Tìm ra lẽ phải không phiền chấp chi.
 
Siêng làm ra của khó gì,
 
Biết lo tiện tăn, mấy khi nghèo nàn.
 
Gốc là Hiếu Đễ giữ ràng,
 
Thảo cha kính mẹ, yêu đang ruột rà.
 
Ở đời phương tiện mới là,
 
Người lo chẳng tiện, ta thà giúp phương.
 
Làm lành là gốc thiên đường,
 
Tùy cơ bố thí chánh phương tu hành.
 
Trọn đời như vậy là lành,
 
Công đầy quả đủ thì thành chẳng ngoa.
 
An chay niệm Phật thêm lòa,
 
Bằng không cũng đặng theo khoa thánh thần.
 
Tự -Kỳ còn ngại tâu rằng:
 
' Khó bề bố thí, vì thân nghèo nàn!’
 
Tần -quảng -vương phán rõ ràng,
 
' Nhiều phương bố thí, lắm đàng tế nhân.
 
Trừ ra túng ngặt cơ bần,
 
Mình đành thí của, cứu lần gian nguy.
 
Chớ như đói khát một khi,
 
Bữa cơm bát nước, tốn gì bao nhiêu?
 
Người đời lo sợ chít chiu,
 
Mình khuyên bớt ngại cũng đều tế nhân.
 
Người mê lầm lỗi cõi trần,
 
Mình khuyên tu niệm đặng phần siêu thăng.
 
Giúp điều phương tiện bủa giăng,
 
Ra công, mỏi miệng, cũng bằng thí thiên.
 
Người gây tụng, kẻ thù riêng.
 
Giải hòa thôi kiện, răn khuyên hết rầy.
 
Tuy nghèo thương chúng chẳng khuây,
 
Cũng là bố thí lựa chi có tiền’
 
Tự Kỳ còn ngại tâu liền:
 
Sãi gọi tu thiền, niệm Phật ăn chay’.
 
Đức vua Tần Quảng phán ngay:
 
' Bày ra niệm Phật ăn chay sửa lòng
 
Ăn chay không ích Thế tôn (Thích -ca).
 
Công chi với Phật, mà hòng ỷ chay?
 
Dẫu cho niệm Phật đêm ngày,
 
Ích chi cho chúng, rằng hay tu hành?
 
Phép tu gốc tại làm lành,
 
Đừng vương việc dữ thời thành xưa nay
 
Dẫu cho niệm Phật ăn chay,
 
Tránh làm lành dữ, tội đày đọa sâu.
 
Mới giam mấy sãi chẳng lâu,
 
Hòa thượng khẩn cầu, niệm Phật ăn chay!
 
Lòng chẳng tịnh, tánh không ngay,
 
Đời niệm Phật, ròng chay cũng cầm.
 
Ngũ luân tu nhứt chẳng lầm,
 
Chay bố thí, niệm thầm thứ hai
 
Trí tại tâm, chẳng tại tài,
 
Lòng chay khó lắm, miệng ngoài có chi
 
Một đồng nhà khó thí đi,
 
Phước ấy dám bì giàu thí một phiên
 
Giàu sang một bữa chay tuyền,
 
Cũng bằng nhà khó chay liền một trăng.
 
Vì suy chỗ khó làm căn,
 
Khó mà làm đặng, thiệt bằng lòng tu’.
 


GIÁC MÊ DIỄN CA 

Từ mở mang trời đất những nay,
 
Cũng có cuộc tang thương canh cải.
 
Ngươn ba ngươn tuần huờn dựng lại.
 
Hội mười hai cho đủ mới rằng.
 
Cõi hồng trần còn hỡi lăng xăng,
 
Người lành phải chịu bề cay đắng,
 
Chữ tam đạt thì lòng phải gắng,
 
Muốn lên bờ phải thác bến mê,
 
Học Phật gia niệm chữ từ bi,
 
Tu tiên đạo giữ câu cảm ứng.
 
Trung thứ này cho là bằng chứng,
 
Phật Thánh Tiên tam giáo một lòng,
 
Dọn chông gai đường cả mới thông,
 
Chịu tân khổ gọi là thượng trí
 
Người trượng phu phải gìn tam qui,
 
Đứng anh hùng đừng bỏ cửu tư,
 
Đạo tiên thiên lập đảnh an lư,
 
Hạng cũng có trong hư ngoài thiệt.
 
Tánh tòng bá phải y một tiết,
 
Nếu đổi dời khổ đọa trầm -luân.
 
Nhắn với ai qui giới phải tuân,
 
Một phen khổ muôn đời thong thả,
 
Nợ tiền khiên buổi nầy phải trả,
 
Nợ trả rồi vật ngoại thảnh thơi
 
Mặc dầu trong trời đất vui chơi,
 
Năm hồ rộng thần tiên thú lạ.
 
Muốn nên mình phải bền chí cả,
 
Công cho dày thì quả mới cao.
 
Dốc lòng đền chín chữ cù lao,
 
Hành chánh đạo dương danh hậu thế.
 
Ấy vậy mới tứ ân bất phế.
 
Hỡi đạo người đừng bỏ nghĩa nhơn,
 
Làm sao cho tiệp thủy đăng sơn.
 
Chữ Hầm cốc cùng ông Tương -Tử,
 
Công danh lợi thì mình phải xử.
 
Cuộc phù hoa nhắm cũng cheo leo,
 
Tần -Thỉ -Hoàng tiếng hỡi còn nêu,
 
Thâu lục quốc phàn sơ khanh sĩ,
 
Núi Thú -dương Di -Tề danh để.
 
Giữa một lòng tiết nghĩa mà thôi,
 
Làm chi Tần -Ngụy cao ngôi,
 
Thanh sử tạc muôn đời cho tệ.
 
Đậu yên sơn ngũ chi đơn quế,
 
Bởi vì chàng cải quá tự tân,
 
Người đời lấy đức tu thân,
 
Đừng học thói vua Tần mà bất nghĩa,
 
Trắc ẩn chi tâm tùng thiên lý,
 
Nỡ lòng nào giết vật cho đành.
 
Người úy tử vật lại tham sanh,
 
Gẫm người vật máu xương không khác.
 
Thấy thửa sống không đành thửa thác,
 
Lời Mạnh -kha sách để hẳn hòi,
 
Xin hiền lương xét lại mà coi,
 
Sao là phải, sao là chẳng phải.
 
Sách có câu quá nhi tất cải,
 
Tử -Lộ xưa nghe lỗi thì mừng,
 
Võ -Vương làm thiên hạ chi quân,
 
Còn phải văn thiện ngôn tắc bái,
 
Nói ra thì tai nghe cũng trái,
 
Bởi vì nhơn sự cách thiên cơ.
 
Việc thị phi tai phải làm ngơ,
 
Học Nhan -tử đai cơm bầu nước.
 
Đạo muốn cao tỏ đường sau trước,
 
Cách chỉ mành nào có xa đâu.
 
Cõi nam đà mở rộng cửa lần,
 
Đèn trí huệ hào quang chói chói,
 
Thuyền bát nhã nghinh ngang bốn biển.
 
Nước ma ha rửa sạch ba lòng,
 
Rượu Quỳnh hoa mời khách tây đông.
 
Ngựa không bóng rước người Nam Bắc,
 
Máy sau lưng xảy bày trước mặt.
 
Nửa hông nồi nấu khắp non sông.
 
Muốn cho thấy đặng chủ nhơn ông,
 
Non vô ảnh âu tâm mới hãn,
 
Trong hang thần đừng cho gián đoạn,
 
Độc mộc kiều có gã Quỳnh nương,
 
Cõi nê hoàn mua rượu Quỳnh tương
 
Đặng một chén uống thời bất lão,
 
Việc tu hành phải suy mùi đạo.
 
Nếu bơ thờ quả vị khó trông,
 
Tiếng đờn thì tai lóng cho thông,
 
Chơn như thể giai không ngũ uẫn,
 
Thập tam ma khuyên đừng lấp lửng,
 
Gươm huệ mài trừ nó mới an,
 
Giảng cho thông tứ cú kim -cang,
 
Thời mới thấy bổn lai diện mục,
 
Tuy sắc thân hỡi còn ở tục,
 
Lòng cho riêng mới gọi là thần,
 
Ai còn mang những thói tham sân,
 
E khó nỗi luân hồi lục đạo,
 
Hoạ phước vô môn nhơn tự triệu,
 
Muốn hi hiền phải liễu phàm tâm,
 
Đạo Như-Li vô thượng thậm thâm,
 
Biển cho lặng minh châu mới hiện,
 
Ngọc cửu khúc gắng công giồi huyện,
 
Tầm thư hùng hái nước non nam.
 
Mười hai giờ quyền hộ phải tham,
 
Thiên giao thời pháp luân thường chuyển.
 
Rồng trên non cọp kia xuống biển.
 
Đầy ba xe chở những vàng ròng,
 
Làm sao rằng lôi phục thiên phong.
 
Buôn sáu hiệp thâu vào lại gắn.
 
Thuốc ba phẩm công phu luyện chính
 
Muốn đơn thành văn võ phải toan,
 
Ai dốc lòng đến núi linh san
 
Đóng sáu cửa cho bền then khóa.
 
Cửu cửu ma thử lòng vàng đá.
 
Ấy mới rằng biết giả biết chơn.
 
Thầy Huyền -Trang tiệp thủy đăng sơn.
 
Trái tám mối Lôi Âm mới tới.
 
Lòng Bồ -đề không dời không đổi.
 
Tánh yêu ma còn tiếc nhục phòng,
 
Bởi chưng qui gới chưa thông.
 
Căn duyên nợ năm dây khó dứt,
 
Đạo muốn cao phải bồi chí đức,
 
Đạo đức toàn quỉ phục thần khâm.
 
Trời đâu có phụ đạo tâm,
 
Nghiệm kim cổ người lành mắc nạn.
 
Việc tu hành phải soi cho rạng,
 
Nếu không minh ắt chẳng đốc hành,
 
Đạo Phật Tiên có chí thì thành,
 
Người bao thuở thủy cầu chung đãi.
 
Nương phép thuyền mà qua khổ hải.
 
Sóng muôn trùng còn đoái làm chi.
 
Bền một lòng niệm chữ A-di
 
Sau cũng đặng thảnh thơi muôn kiếp.
 
Máy quang âm lẹ thoi như nhíp,
 
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao.
 
Cõi bờ này sóng bủa lao xao,
 
Cuộc danh lợi gẫm như bọt nước,
 
Đọc sách kinh nhớ người đời trước.
 
Ông Thạch -Sùng giàu có muôn xe.
 
Qua đời này tiếng hỡi còn nghe,
 
Sao chẳng thấy mặt trường sanh thọ hưởng.
 
Hàn -Tín xưa là mưu thần chi tướng.
 
Cũng chưa nên mười mặt phô trương,
 
Người ở đời lấy đó mà răn,
 
Kim như thị cổ hà như thị.
 
Xử thế phải biết liêm biết sĩ,
 
Tu thân thời vô lự vô tư,
 
An một lòng mau ốc thảo lư.
 
Đừng học thói Triệu Tần mộ Sở.
 
Đường Huỳnh -Đạo trời đà rộng mở.
 
Khách Tây -du sớm nhớ quày đầu.
 
Kiếp duyên khương sáu vạn dư niên,
 
Dưng thiên mạng kíp truyền y-bát.
 
Sông Ai-hà khuyên người kíp thoát.
 
Khỏi lưới trần cực lạc cũng xinh.
 
Cuộc diêm -phù nhiều nỗi nhục vinh.
 
Không lại có, giàu sang dời đổi.
 
Thú thảnh thơi màu thoàn quen dõi.
 
Đất Bồ -đề sớm tối xuê-xoang.
 
Chữ Danh lợi, sao bằng chữ nhàn.
 
Cửa Bát nhã vào ra thong thả.
 
Trống Đại Hùng đà thâu ý mã.
 
Chuông linh sơn hỡi toả tâm duyên.
 
Ngọc mu ni há dễ khinh truyền.
 
Kinh Bạch tư dám đâu vọng triết.
 
Địch không lỗ có duyên mới biết.
 
Đờn không dây vô phước khó nghe.
 
Rượu đề hồ chứa để đầy ve.
 
Say một cuộc bất tri nhơn sự.
 
Ngâm chỉ huyền say cùng ông Lữ.
 
Đọc tỉnh mê say với ông La.
 
Kim huỳnh -đình rảnh đọc năm ba.
 
Vô bồng tháp buồn xem tạo hóa.
 
Ngó Nam lãnh vui màu tòng bá,
 
Nhìn Bắc Hà rùa cá lội vởn vơ.
 
Chốn Đơn phòng tỏ nỗi huyền cơ.
 
Mặc dầu kẻ ngộ cùng không ngộ.
 
Có duyên gặp tam kỳ phổ độ.
 
Muôn đời còn Tử phủ nên danh,
 
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
 
Đơn thơ chiếu hiển vinh thiên tước.
 
Chín phẩm sen vàng khai thấy Phật.
 
Cữu huyền thất tổ đặng tiêu diêu.
 

THẬP NGOẠT CA
 

Hiệu đề thập ngoạt hoài thai,
 
Tam niên nhủ bộ ai ai cho tường.
 
Kể ra mỗi việc trăm đường,
 
Nghe thời phải gắng cho thường chớ sai.
 
Dặn dò già trẻ gái trai,
 
Tưởng ơn cha khổ, nhớ hoài mẹ lao.
 
Trước thưa anh chị nhậm ngôn,
 
Sau cùng thiện tín bát phương đạo tình.
 
Khá ăn chay niệm Phật tụng kinh,
 
Tuân qui giới đền ơn thiênđịa
 
Người trượng phu phải gìn chữ nghĩa.
 
Đứng anh hùng trung hiếu đừng sai.
 
Anh đừng quên thập ngoạt hoài thai,
 
Chị phải nhớ tam niên nhủ bộ.
 
Lòng tưởng tới cửu huyền thất tổ.
 
Dạ khăng khăng báo bổ song thân.
 
Làm sao cho báo đáp tứ ân.
 
Lo những cứu tam đồ chi khổ.
 
Ơn phụ mẫu sanh con quá khổ.
 
Mẹ đặt con vào dạ thêm lo.
 
Chín tháng trường chẳng dám ăn no.
 
Năm canh ấy ngủ không ngon giấc.
 
Chưn mẹ không rời dưới đất,
 
Dạ cưu mang lật đật dám đâu.
 
Tưởng chừng nào lụy nhỏ thâm bâu,
 
Chạnh nhớ đến ruột đau từ đoạn.
 
Việc sanh đẻ mẹ đà xuất hạng.
 
Tán loạn lo sanh tử không chừng.
 
Vì chậm sổ thời cha vái tưng bừng,
 
Bằng trì huỡn phụ vào bái tử.
 
Chốn ô uế đứng trong giường cữ,
 
Cúi đầu chờ con sổ cho mau.
 
Đến bây giờ phải nghĩ trước sau.
 
Ơn nghĩa ấy tương rau cũng đáng.
 
Huyết ô trì mẹ nằm một tháng,
 
Bởi vì con, thịt nát dạ càng,
 
Trên thời vầy nồi nước vung thang,
 
Nơi phía dưới lửa vây hừng hực.
 
Chịu cay đắng mẹ không than cực,
 
Đạo làm con phải nhớ sanh thành.
 
Thập ngoạt đà nhứt tử nhứt sanh,
 
Tam niên ấy ốm gầy mình mẹ.
 
Nuôi con trẻ không cho tiếng khóc,
 
Hễ khóc lên lật đật chạy quay
 
Công mẹ rày giặt rửa liền tay.
 
Vì con trẻ bao nài khai thúi.
 
Mới ngon giấc ỉa ra lụi hụi,
 
Cha đốt đèn mẹ lại rửa trôn.
 


MƯỜI -CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT 


1.       Một là, những tội lỗi đã tao từ trước, nhe thì được tiêu từ.  Nặng thì chuyền thành nhẹ. 
2.       Hai là, thường được các thiên thần ùng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù, 
3.       Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này. 
4.       Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hảm hại. 
5.       Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộnh. Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt. 
6.       Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời. 
7.       Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen. 
8.       Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khoẻ, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhâm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân. 
9.       Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy. 
10.    Mười là, hay vỉ tất cả chúng sanh trồng các cân lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Phép, phước huệ rông lớn, chúng đạt lục thông, sớm thành Phật quả. 


ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: 

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tặt bịnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.
 

ẤN TỐNG KINH 

Chúng con góp lòng thành Tâm Ấn Tống 1000 cuốn Kinh Nhơn Quả, Nghiệp và Luân Hồi để cầu an và cầu siêu.
 

Nam Mô bổn sư thích ca Mâu Ni Phật
 
Nam Mô a Di đà Phật.
 
Nam Mô đương lai hạ sanh di lặc Tôn Phật.
 
Nam Mô Quang Thế Âm Bồ Tát.
 

Cầu An 

Nguyện cầu hồng ân tam bảo. Thế giới Hoà Bình an lạc thịch vượng và Gia Hộ toàn thể thân bằng quyến thuộc Nội Ngoại, Ông Bà Cha Mẹ, Cô Chú Dì Dượng, Anh Chị Em con cháu Thân Tầm thường an lạc, Bồ đề tâm tân trưởng, Tu hành kinh tiến.
 


Cầu Siêu 

Cầu nguyện Hồi hướng công đức đến bảy đời phụ mẫu và tất cả Chư Vong Linh đồng bào tử nạn khắp cõi hoàn cầu được siêu sanh tịnh độ.
 

Nam Mô đại nguyện địa Tạn Vương bồ tát Ma Ha Tát.
 

CÁC NGÀY KỶ NIỆM
 
(Tính theo Âm-lịch)
 

THÁNG GIÊNG 

Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc.
 
22.- Tổ Thập -Tháp (Phước -Huệ,chứng -minh Đạo sư Hội
 
Phật -giáo Trung-Phần) viên tích.
 
23.- Tổ Khánh -Anh (Thượng -thủ Giáo -hội Tăng-Già toàn
 
quốc V.N. niên khóa II. Pháp -chủ Gióa -hội Tăng -già
 
V.N. niên khóa II) viên tịch 30.
 

THÁNG HAI: 

Ngày 8.- Vía Phật Thích -Ca xuất -gia.
 
15.- Vía Phật Thích -Ca nhập - diệt.
 
19.- Vía Phật Quán -Thế -Âm Bồ -Tát.
 
20.- Vía Đức Phổ -Hiền Bồ -Tát.
 


THÁNG BA: 
Ngày 16.- Vía Đức Chuẩn -Đề Bồ -Tát.
 

THÁNG TƯ: 

Ngày 3.- Tổ Tuệ -Tạng (Thượng -thủ Giáo -hội Tâng già toàn
 
quốc V.N. niên khóa I) viên tịch.
 
04.- Vía Đức Vân -Thù Bồ Tát.
 
15.- Vía Phật Thích -Ca Giáng -sanh.
 
20.- Bồ Tát Thích Quảng -Đức vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 11-6-1963). 20.-
 

THÁNG SÁU: 

Ngày 15.- Đại -Thích -Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 4-8-1963).
 
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát.
 
19.- Tổ Khánh -Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn -hưng
 
Phật giáo miền Nam) viên tịch.
 
24.- Đại -đức Thích -Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 15-8-1963).
 
26.- Thích -nử Diệu -Quang vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 15-8-1963).
 
27.- Đại -đức Thích -Tiêu -Diêu vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 16-8-1963).
 

THÁNG BẢY: 

Ngày 13.- Vía Đức Đại -Thế -Chí Bồ -tát.
 
15.- Lễ Vu -Lan Bồn.
 

30.- Vía Đức Địa -Tạng Bồ -tát.
 

THÁNG CHÍN: 
Ngày 02.- Đại đức Thích -Quãng -Hương vị pháp thiêu thân
 
(nhằm 5-10-1963).
 
11.- Đại đức Thích -Thiện -Mỹ vị pháp thiêu thân
 
(nhằm ngày 27-10-1963).
 
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -tát.
 
30.- Vía Phật Dược -Sư.
 

THÁNG MƯỜI MỘT: 

Ngày 01.- Tổ Huệ -Quang (pháp chủ G.H.T.G.N.V. niên khóa I)
 
viên tịch.
 
07.- Vía Phật -A-Di-Đà.
 

THÁNG CHẠP: 

Ngày 08.- Vía Phật Thích -Ca thành đạo.
 
08.- Tổ Vĩnh -Nghiêm (Thiên-gia Pháp -chủ Giáo hội Tăng -
 
già BV) viên tịch.
 

NHỮNG NGÀY TRAI 

Thập trai: Mổi tháng mười ngày: 
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30.
 
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
 
Lục trai: Mổi tháng sáu ngày:
 
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30.
 

Tứ trai: Mỗi tháng bốn ngày: 

Mồng 1, 14, 15, 30.
 

Nhị trai: Mỗi tháng hai ngày: 
Mồng 1, 15.
 

Tam ngoạt trai: Một năm ba tháng: 
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười.
 

*** Những ngày trai không nên dùng các món
 
gia-vị như: hành, hẹ, nên, tỏi, tổi tây v.v...
 

*** Người tu hành ăn các món này thì tụng kinh
 
trì chú không linh nghiệm và khiêu gợi dục tình,
 
sanh thêm các tánh hung dữ.
 




ST

No comments:

Post a Comment