Hẳn nhiều người đã từng nghe/đọc qua '37 Bồ Tát Hạnh' nhưng lại không biết xuất xứ từ đâu... ai là người viết ra hay giảng ra? Từ Phật? từ Bồ Tát, chư Tổ, Thanh-Văn hay Duyên Giác? Thì xin mời đọc tiểu sử của Ngài Tôn Giả Santideva.
Tiểu Sử Tôn Giả Santideva
Theo
truyền thuyết, tôn giả Santideva sinh ở miền Nam Ấn, vùng Sri Nagara vào khoảng
thế kỷ thứ 7. Ngài là thái tử con vua Surastra.
Từ
những kiếp quá khứ, Ngài đã cúng dường phụng thờ nhiều đức Phật và đã tích tụ
nhiều căn lành đưa đến giải thoát. Nhờ phước đức ấy nên ngay từ lúc ấu thơ, Ngài
đã nhiều lần chiêm bao thấy Văn Thù Bồ Tát. Lớn lên, đến tuổi sắp được vua cha
truyền ngôi, một hôm Ngài nằm mộng thấy hai vị Bồ Tát: Văn Thù và Tara [1]. Bồ
Tát Văn Thù ngồi trên ngai vàng, bảo Ngài rằng: "Ở đây không có chỗ cho
hai người"; Bồ Tát Tara tưới nước nóng trên đầu Ngài nói rằng: "Vương
quyền chính là nước sôi bỏng của địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi với nước
này đây". Tĩnh dậy, Ngài hiểu rằng đó là sự khuyến cáo của hai vị Bồ Tát
nên đêm hôm trước ngày lên ngôi, Ngài rời bỏ cung thành trốn vào rừng sâu. Sau
21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, Ngài gặp được một con suối, sắp
sửa định uống thì có một thiếu nữ xuất hiện bảo Ngài đừng uống vì đó là nước độc.
Sau đó thiếu nữ dâng cho Ngài một thứ nước thơm như cam lồ. Giải khát xong, Ngài
hỏi thiếu nữ: "Cô ở đâu đến?" Thiếu nữ trả lời: "Ở giữa khu rừng
mênh mông này là nơi thầy tôi ở, Ngài rất đạo đức, từ bi và đã thành tựu phép tam
muội của Văn Thù Kim Cang Sư Lợi (Sri Manjuvajra). Tôi từ đó đến đây". Vừa
nghe như thế, tôn giả Santideva mừng rỡ như kẻ nghèo bắt được vàng, yêu cầu thiếu
nữ dẫn Ngài đến gặp vị thầy kia. Ðến nơi Ngài thấy đó là một hành giả Du Già
(Yogi) sống trong một chòi lá. Ngài liền đảnh lễ, xưng tán cúng dường và cầu
xin được truyền phép tam muội của Văn Thù Bồ Tát. Sau 12 năm ở đó tu tập, Ngài chứng được phép
tam muội trên, thấy được vị thầy kia chính là Văn Thù và thiếu nữ kia chính là
Tara.
Kể
từ đó, Ngài luôn luôn được thấy Văn Thù Bồ Tát. Sau đó Ngài đi về
phương
đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimha. Nhờ tài
giỏi
và thông minh nên Ngài được vua trọng vọng cho làm Thừa Tướng. Ðể tỏ lòng thành
kính nhớ ơn vị thần linh thủ hộ của mình, tức Văn Thù Bồ Tát, Ngài luôn đeo
trên mình một thanh kiếm gỗ.
Ngài
giúp vua trị vì đúng theo Phật Pháp và truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới
lạ.
Ðiều đó khiến các vị đại thần khác ganh tức, tìm cách dèm pha và hãm hại Ngài.
Họ bảo vua rằng: "Thừa tướng là một người gian xảo, luôn đeo trên mình một
thanh kiếm mà không bào giờ rút ra cho ai xem cả. Chúng tôi biết thanh kiếm ấy
làm bằng gỗ. Gặp lúc nguy biến làm sao Thừa tướng có thể cứu nguy cho Bệ hạ được?
Xin Bệ hạ hãy khám nghiệm lại". Vua tin lời, cho triệu Thừa tướng vào bắt
phải rút kiếm ra khỏi vỏ cho vua xem. Thừa tướng nói: "Kiếm của tôi, Bệ hạ
không thể nhìn được, nếu không Bệ hạ sẽ hối hận". Nghe vậy, vua càng nghi
ngờ nhất quyết đòi xem. Cuối cùng Thừa tướng tâu: "Nếu Bệ hạ nhất quyết muốn
xem thì hãy theo tôi đến chỗ vắng, lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt
trái thôi". Vua chấp thuận và Thừa tướng rút kiếm ra, hào quang lóe lên
quá mạnh khiến con mắt trái của Vua rơi xuống đất. Vua liền ăn năn hối hận, biết
Ngài là một người đắc đạo, một Ðại thành tựu giả [3] nên cầu xin sám hối. Biết
vua đã ăn năn, Thừa tướng nhặt mắt trái của vua bỏ vào tròng lại khiến vua khỏi
mù. Sau đó tôn giả từ bỏ chức Thừa tướng, tìm đến Tu viện Nalanda, xuất gia thọ
giới, được đặt tên là Santideva. Sau khi nghe hết 3 tạng kinh điển, tôn giả thầm
biên soạn 3 bộ luận: Siksasamuccaya, Sutrasamuccaya và Bodhicaryavatara. Ngài
tu mật hạnh, học trực tiếp với Văn Thù Bồ Tát trong thiền định. Tất cả thời ăn,
ngủ, đi, đứng, Ngài đều thiền quán về Thanh Quang (Eussel, Clear Light). Tuy vậy
chúng tăng bên ngoài thấy Ngài chỉ ăn với ngủ không chịu văn, tư, tu gì cả. Thấy
thế, một số Thượng tọa học giả họp nhau lại định tống khứ Ngài ra khỏi tu viện.
Có người cho ý kiến: "Nếu chúng ta họp lại, bắt mỗi người phải tuần tự
trùng tuyên lại Kinh Luận, chắc chắn y sẽ phải tự động rút lui, rời bỏ Tu viện
vì y chỉ ăn với ngủ đâu có bao giờ tu học gì". Thế rồi đến phiên tôn giả
Santideva phải trùng tuyên lại Kinh Luận, ban đầu Ngài từ chối, nói rằng không
biết gì. Chúng tăng muốn làm nhục Ngài nên làm bộ nài nỉ, cuối cùng Ngài nói:
"Nếu vậy phải
làm cho tôi một tòa sư tử [4] tôi mới trùng tuyên". Nghe vậy có vài người
đâm ra nghi ngờ, nhưng đa số chấp thuận vì tin rằng Ngài không thể trùng
tuyên Kinh Luận gì được. Sau khi lên ngồi
tòa sư tử, Ngài hỏi: "Các vị muốn tôi tụng lại Kinh Luận đã có từ trước
hay những sáng tác mới sau này".
Vì muốn chế diễu Ngài nên đại chúng nói: "Những sáng tác mới sau này".Thế
là Ngài bắt đầu tụng lên Bồ Tát Hạnh (Bodhisattva-carya-vatara). Khi
tụng đến câu: "Khi Có và Không không còn khởi lên trong tâm..." thì Ngài
bay lên hư không rồi từ từ biến mất, nhưng tiếng của Ngài còn vọng lại cho đến
câu kệ cuối cùng của Bồ Tát Hạnh. Không thấy Ngài nữa, tăng chúng
hối hận trở về phòng Ngài tìm kiếm, thấy trên bàn để lại 3 quyển: Sutrasamuccaya
[5], Siksacamuccaya và Bodhicaryavatara.
Chú
thích:
[1]
Tara là một hóa thân hình nữ của Quán Thế Âm, trong Phật giáo Ấn Ðộ
và
Tây Tạng được nói đến rất nhiều. Quán Thế Âm, khi nhìn thấy chúng
sinh
đau khổ, Ngài nhỏ lệ từ bi và giọt lệ này rơi xuống hóa thành Tara.
[2]
Văn Thù Bồ Tát, thường hiện thân, tay phải cầm kiếm trí tuệ, tay trái cầm kinh
Bát Nhã.
[3]
Mahasiddha: người tu hành đắc đạo có thần thông.
[4]
Simhasana: tòa ngồi chỉ dành cho những hàng Tỳ Kheo Trưởng lão Pháp sư.
[5]
Hai tập Siksasamuccaya (Giáo Tập Yếu) và Bodhicaryavatara (Bồ Tát
Hạnh)
chắc chắn tác giả là Ngài Santideva, riêng tập Sutrasamuccaya, đa
số các học giả đều công nhận tác giả là Ngài Long Thọ (Nagarjuna). Tiểu sử này
tôi rút tỉa từ 2 tài liệu History of Buddhism in India của Taranatha và La Légende
de Santideva trong Indo-Iranian Journal Volume XVi. Trong tạng luận của Tây Tạng
có nói đến bộ Mdo.sde.sna.tshogs.kyi.mdo.btus.pa mà học giả Marcelle Lalou đã
chuyển sang
lại Sanskrit là Visvasutrasamuccaya, tập này ngày nay đã bị mất tích. Theo học
giả J.W.DeJong thì có lẽ 2 tập này tương tựa nhau nên các sử gia Tây Tạng và luận
gia Ấn Ðộ cùng cho tác giả của Kinh Tập Yếu (Sutrasamuccaya) là Ngài Santideva.
Kinh Tập Yếu đã được Hòa Thượng Linh Sơn thượng Huyền hạ Vi dịch từ Hán văn ra
Việt văn năm 1985 với tựa đề là Yếu Nghĩa Phật Pháp.
ST
No comments:
Post a Comment