Khổ thiệt ... thời ma quỷ nên đạo đức con người vì những đồng tiền mà làm bậy. Dù là cấp bậc hoà thượng, thượng toạ, đại đức, đức cha. Nhìn mà sợ chùa với nhà thờ luôn.
TU,
một chữ gốc từ chữ Tàu (bộ Nhân) đã thành danh từ (trong tiếng Việt) để chỉ:
Sống khắt khe theo những giáo lý quy định chặt chẽ của một tôn giáo (nào đó)
như tu đạo Phật, tu ở chùa, tu hành, tu sĩ, tu viện hoặc chú tâm vào việc học
hành (một môn học) hay rèn luyện (bản thân) để nhằm đạt mức tận thiện như tu
dưỡng, tu thân, tu tỉnh, chuyên tu, tự tu... Còn là động từ để nói: Sửa chữa,
sửa lại như tu bổ, tu chỉnh, tu sửa... Ngoài các nghĩa trên thì chữ TU còn
mang nhiều nghĩa khác như: Râu (tu mi nam tử), uống nhiều liền một mạch bằng
cách ngậm miệng trực tiếp vào vật đựng mà dốc nghiêng vào (tu một hơi hết cả
cốc nước đầy)... Từ chữ TU mà ngôn ngữ Việt có thêm các chữ (cụm từ) khác như:
Tu binh mãi mã (huấn luyện quân đội để chuẩn bị phòng chiến tranh), Tu hành
(rời bỏ cuộc sống thường nhật để thực hành theo một tôn giáo nào đó), Tu kỹ dĩ
thân (lấy lòng thành kính mà sửa mình, tu thân), Tu thư (biên soạn sách giáo
khoa), Tu nhân tích đức (ăn ở hiền lành, làm điều nhân đức để phúc lộc cho con
cháu), Tu sĩ, Thầy tu (người đàn ông tu hành)...
Một chữ TU không thôi mà ta thấy có quá nhiều nghĩa khi giải thích và ở bài viết NGHỀ ĐI SƯ nầy thì Phạm Thắng Vũ (PTV) chỉ viết về tu sĩ hay thầy tu bên Phật Giáo không thôi. Chúng ta biết là bất cứ tôn giáo nào ngoài nhà thờ, chùa chiền thì đều cần có các tu sĩ để trông coi, hành đạo và hầu như để có các tầng lớp tu sĩ nối tiếp nhau thì tôn giáo đó còn phải có các tu viện, nhà dòng để đào tạo các tu sinh, chủng sinh, tiểu thành tu sĩ, thầy tu... Để thành một tu sĩ thực thụ thì một người bình thường phải tốn rất nhiều công sức (thời gian và sức lực), ý chí (học và hành đạo) chứ không phải một sớm một chiều mà thành (thầy tu) ngay được. Chính vì vậy, xã hội nào cũng dành sự kính trọng cho các tu sĩ, người đã từ bỏ gia đình cùng đời sống riêng của mình để nương thân vào chốn không cạnh tranh không ham danh-hám lợi nữa (vô sở cầu, vô sở trụ)... để tu, để giải thoát cho bản thân (sạch hết các ham muốn trần tục). Vẻ bề ngoài (sắc diện, y phục, ngôn từ) của các tu sĩ, đã mặc nhiên được xã hội chấp nhận là bậc lãnh đạo, dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh (người đời) mà không chút nghi ngờ về nhân thân (của tu sĩ).
Có người do lòng tham cá nhân, muốn hưởng sự kính trọng của xã hội dành cho bậc tu hành nên đã giả dạng làm một tu sĩ và các tu sĩ giả nầy, tất nhiên vẫn hưởng sự kính trọng của dân chúng (phật tử, con chiên) như mình là tu sĩ thật. Đọc trong sách sử thì ta cũng biết từ xa xưa có khi chính quyền làm cuộc kiểm tra các chùa để giới hạn số tu sĩ (tăng) trong chùa cùng buộc hoàn tục các tu sĩ giả mạo (ở ngoài xã hội). Những người giả mạo nầy đã coi tu sĩ là một NGHỀ để họ hành hòng hưởng lợi. Tại Việt Nam hiện nay thì ta có thể dễ dàng thấy ở bất cứ địa phương nào cũng có người giả dạng tu hành nhưng có lẽ nhiều nhất thì thuộc về làng Vũ Dương xã Bồng Lai huyện Quế Võ thuộc tỉnh Bắc Ninh. Làng nầy nguyên là một làng thuần nông (sống bằng nghề ruộng vườn, trồng trọt) mà ít đất đai nên tất nhiên việc mưu sinh trong làng rất khó. Đổi qua nghề buôn bán hàng hóa mà cũng không khá, dưới mái lá nhà tranh-vách đất thì dân làng vẫn chật vật trong việc có được bữa ăn hàng ngày. Vậy mà chỉ độ chục năm trở lại thì bộ mặt trong làng Vũ Dương đã khác hẳn trước. Ai đến làng bây giờ sẽ thấy nhà cao 2 tấm 3 tấm (tầng) mọc lên san sát bên nhau thay cho các mái nhà tranh năm xưa. Tai sao? Hỏi thăm thì biết chủ những ngôi nhà cao tầng nầy là các người ĐI SƯ (đi làm sư) về. Những tu sĩ giả (ĐI SƯ) nầy có cả thẻ (do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cấp) đeo trước ngực khi hành nghề (khất thực, bán nhang với giá cao, xin tiền để giúp xây chùa, nuôi cô nhi, người khuyết tật...). Vẻ bề ngoài (y phục nhà chùa cùng bộ dạng hiền lành) cộng thêm với ít kiến thức (tự học) về Phật Pháp (cũng có người thêm khoa bói toán) cùng sự kính trọng của dân lành (nạn nhân), đã giúp các tu sĩ giả mạo kiếm tiền thật dễ dàng. Từ một cái làng thuần nhà tranh-vách đất, luôn lo cái đói hàng ngày mà chỉ nhờNGHỀ ĐI SƯ mà những người ăn đói-mặc rét hồi trước trong làng Vũ Dương, nay đã trở thành các ông chủ của các căn nhà cao-cửa rộng cùng tiền bạc rủng rỉnh. Bí quyết làm giàu của họ đã trở thành phương kế " thoát nghèo " cho dân trong làng bắt chước. Thanh niên thanh nữ lêu lỏng, thích ăn chơi trong làng cũng học theo các đàn anh của mình và việc " đào tạo thành sư " thật gọn gàng. Người ĐI SƯ trong làng Vũ Dương nhiều đến nỗi có lúc, chỉ trong một buổi sáng đã có tới trên 100 vị sư từ trong (các căn nhà cao tầng) đi ra (như đi trẩy hội) để tỏa khắp các phương trời (các thành phố miền Bắc hoặc sẽ vào tận các tỉnh ở trong miền Nam) mà hành sự.
Một chữ TU không thôi mà ta thấy có quá nhiều nghĩa khi giải thích và ở bài viết NGHỀ ĐI SƯ nầy thì Phạm Thắng Vũ (PTV) chỉ viết về tu sĩ hay thầy tu bên Phật Giáo không thôi. Chúng ta biết là bất cứ tôn giáo nào ngoài nhà thờ, chùa chiền thì đều cần có các tu sĩ để trông coi, hành đạo và hầu như để có các tầng lớp tu sĩ nối tiếp nhau thì tôn giáo đó còn phải có các tu viện, nhà dòng để đào tạo các tu sinh, chủng sinh, tiểu thành tu sĩ, thầy tu... Để thành một tu sĩ thực thụ thì một người bình thường phải tốn rất nhiều công sức (thời gian và sức lực), ý chí (học và hành đạo) chứ không phải một sớm một chiều mà thành (thầy tu) ngay được. Chính vì vậy, xã hội nào cũng dành sự kính trọng cho các tu sĩ, người đã từ bỏ gia đình cùng đời sống riêng của mình để nương thân vào chốn không cạnh tranh không ham danh-hám lợi nữa (vô sở cầu, vô sở trụ)... để tu, để giải thoát cho bản thân (sạch hết các ham muốn trần tục). Vẻ bề ngoài (sắc diện, y phục, ngôn từ) của các tu sĩ, đã mặc nhiên được xã hội chấp nhận là bậc lãnh đạo, dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh (người đời) mà không chút nghi ngờ về nhân thân (của tu sĩ).
Có người do lòng tham cá nhân, muốn hưởng sự kính trọng của xã hội dành cho bậc tu hành nên đã giả dạng làm một tu sĩ và các tu sĩ giả nầy, tất nhiên vẫn hưởng sự kính trọng của dân chúng (phật tử, con chiên) như mình là tu sĩ thật. Đọc trong sách sử thì ta cũng biết từ xa xưa có khi chính quyền làm cuộc kiểm tra các chùa để giới hạn số tu sĩ (tăng) trong chùa cùng buộc hoàn tục các tu sĩ giả mạo (ở ngoài xã hội). Những người giả mạo nầy đã coi tu sĩ là một NGHỀ để họ hành hòng hưởng lợi. Tại Việt Nam hiện nay thì ta có thể dễ dàng thấy ở bất cứ địa phương nào cũng có người giả dạng tu hành nhưng có lẽ nhiều nhất thì thuộc về làng Vũ Dương xã Bồng Lai huyện Quế Võ thuộc tỉnh Bắc Ninh. Làng nầy nguyên là một làng thuần nông (sống bằng nghề ruộng vườn, trồng trọt) mà ít đất đai nên tất nhiên việc mưu sinh trong làng rất khó. Đổi qua nghề buôn bán hàng hóa mà cũng không khá, dưới mái lá nhà tranh-vách đất thì dân làng vẫn chật vật trong việc có được bữa ăn hàng ngày. Vậy mà chỉ độ chục năm trở lại thì bộ mặt trong làng Vũ Dương đã khác hẳn trước. Ai đến làng bây giờ sẽ thấy nhà cao 2 tấm 3 tấm (tầng) mọc lên san sát bên nhau thay cho các mái nhà tranh năm xưa. Tai sao? Hỏi thăm thì biết chủ những ngôi nhà cao tầng nầy là các người ĐI SƯ (đi làm sư) về. Những tu sĩ giả (ĐI SƯ) nầy có cả thẻ (do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cấp) đeo trước ngực khi hành nghề (khất thực, bán nhang với giá cao, xin tiền để giúp xây chùa, nuôi cô nhi, người khuyết tật...). Vẻ bề ngoài (y phục nhà chùa cùng bộ dạng hiền lành) cộng thêm với ít kiến thức (tự học) về Phật Pháp (cũng có người thêm khoa bói toán) cùng sự kính trọng của dân lành (nạn nhân), đã giúp các tu sĩ giả mạo kiếm tiền thật dễ dàng. Từ một cái làng thuần nhà tranh-vách đất, luôn lo cái đói hàng ngày mà chỉ nhờNGHỀ ĐI SƯ mà những người ăn đói-mặc rét hồi trước trong làng Vũ Dương, nay đã trở thành các ông chủ của các căn nhà cao-cửa rộng cùng tiền bạc rủng rỉnh. Bí quyết làm giàu của họ đã trở thành phương kế " thoát nghèo " cho dân trong làng bắt chước. Thanh niên thanh nữ lêu lỏng, thích ăn chơi trong làng cũng học theo các đàn anh của mình và việc " đào tạo thành sư " thật gọn gàng. Người ĐI SƯ trong làng Vũ Dương nhiều đến nỗi có lúc, chỉ trong một buổi sáng đã có tới trên 100 vị sư từ trong (các căn nhà cao tầng) đi ra (như đi trẩy hội) để tỏa khắp các phương trời (các thành phố miền Bắc hoặc sẽ vào tận các tỉnh ở trong miền Nam) mà hành sự.
Ni bị bắt cùng tang vật hành nghề.
Sư đếm tiền trong bình bát của mình.
Những cá nhân ĐI SƯ của làng Vũ Dương nầy chỉ vì tiền mà đánh mất đạo đức, sự hổ thẹn cá nhân của mình. Với họ, tiền là cứu cánh là phương tiện để sống nên đổ lỗi cho hoàn cảnh vì muốn thoát nghèo mà buộc lòng phải hành nghề tu sĩ giả mạo nầy. Không riêng gì các đàn anh trong làng Vũ Dương đã lấy hết kinh nghiệm hành nghề Đi SƯ của mình để truyền lại cho các người mới muốn học thì tại Hà Nội, xa hơn về hướng Tây Nam của tỉnh Bắc Ninh, lại có một văn phòng của lực lượng công an Việt Cộng chuyên đào tạo các công an tôn giáo. Đó là Cục A 22, nơi mà các học viên sau khi tốt nghiệp sẽ thành các tu sĩ phật giáo (cấp Đại Đức) trẻ để chính quyền dễ dàng gài vào tu tập (hay trụ trì) trong các chùa, tu viện ở bất cứ tỉnh thành nào trong nước (có khi còn gửi ra hoạt động ở hải ngoại nữa). Những công an tu sĩ nầy, tất nhiên do được đào tạo bài bản thì ngoài việc tuổi đời còn trẻ, đẹp trai, rành chuyện học hỏi kinh nghiệm giao tiếp (với phật tử) thì việc kinh kệ, Phật pháp... họ thuộc như cháo chẩy. Đến (thâm nhập vào) bất cứ nơi nào để hành sự (thi hành nhiệm vụ Đảng Việt Cộng giao phó) thì chắc chắn, họ sẽ dễ dàng một sớm một chiều chiếm được cảm tình của phật tử, để rồi (với thời gian) thì họ sẽ từng bước trở thành tu sĩ trụ trì, lãnh đạo (ngôi chùa, phật tử) nơi địa phương đó.
Sư và mũ công an Việt Cộng.
Hình như Việt Cộng vẫn chỉ lũng đoạn được hàng ngũ tu sĩ của đạo Phật, Cao Đài tại Việt Nam( Việt Cộng cố sức lũng đoạn hàng ngũ tu sĩ đạo Công Giáo, Hòa Hảo, Tin Lành nhưng vẫn chưa thành).
Để chấm dứt bài viết về NGHỀ ĐI SƯ nầy thì PTV xin kể một câu chuyện để các bạn đọc thấy cách gài người trong hàng ngũ tu sĩ của Việt Cộng. Câu chuyện kể về một linh mục đạo Thiên Chúa Giáo thời còn miền Nam VNCH là linh mục ĐCT (xin được dấu tên). Linh mục T có thời là linh mục tuyên úy trong quân đội miền Nam VNCH (cấp Tá) và khi còn ở ngoài miền Bắc (trước thời điểm di cư năm 1954) thì linh mục T có một người thân cận (thầy 6) lúc nào cũng theo chân linh mục như hình với bóng (để phụ việc). Linh mục T có xây vài ngôi trường trung học tư thục (trong vùng Gia Định-Hốc Môn-Gò Vấp thuộc ngoại ô Sài Gòn) và thầy 6 nầy là người giữ tay hòm-chìa khóa (quản lý về tài chánh) cho linh mục T. Đi đâu thì giáo dân ai cũng thấy hai thầy trò bên nhau, có gì ăn nấy... Thời điểm 30-4-1975 đến thì vào một buổi chiều cuối năm (không nhớ rõ ngày, tháng), có một chiếc xe hơi mầu trắng chạy đến đậu ngay trước căn phòng của linh mục T (trong khu nhà chung của xứ đạo) và một toán công an túa ra. Đám công an ùa vào phòng, đọc lệnh bắt rồi còng tay linh mục T, đưa lên xe rồi sau đó tống linh mục T đi tù cải tạo tuốt luốt ngoài miền Bắc xa xôi. Hết thời hạn cải tạo thì linh mục T bị an trí ở ngoài miền Bắc luôn như trường hợp của ông Vũ Hồng Khanh (người ký tên chung với Hồ Chí Minh trong thỏa ước Sơ Bộ 1946 với Thực dân Pháp). Hành động của đám công an trong buổi chiều hôm đó, xẩy đến đột ngột không ai ngờ và cái mà những người có mặt thấy tận mắt (rồi sau đó họ kể lại) là việc mà họ sợ đến sững sờ, chính là gã chỉ huy đám công an đến bắt linh mục T lại là thầy 6. Ai nghe chuyện kể cũng phải đặt câu hỏi không hiểu cái lão thầy 6 này ăn phải cái gì của Việt Cộng mà lão mê chúng khiếp đảm vậy? Và, nếu như linh mục T chịu đi di tản ra nước ngoài (trong thời điểm 30-4-1975) thì rồi với cái vỏ là thầy 6, cúc cung phụ việc với linh mục T (ở một quốc gia tự do nào đó mà phần chắc sẽ là USA) thì nhiệm vụ và bộ mặt thật của thầy 6 sẽ tiếp tục ra sao (trong nhiệm vụ nằm vùng cho chính quyền Việt Cộng)?
Phạm Thắng Vũ
Feb 09, 2014.
-----
cái quyền linh thiêng, đại diện cỏi trên ban phát ân huệ cho chúng sanh và bắt người phàm tục phục dịch cho mình. Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do. Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám vào thầy cha, nhà chùa, nhà thờ, theo sát thầy cha đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa. Hành động nầy chẳng những đưa ‘cái tôi’ của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được thường xuyên bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa ! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội. Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục !!!
Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành :
1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh. Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật ! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe ! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.
2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau…thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu…trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì ! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời ! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.
Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng : ‘Nghề Đi Tu’ ! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài ba kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng. Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay ! Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt. Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào. Tôi chứng kiến một cha người Pháp từ đã chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ. Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẽ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ !
Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ. Riêng việc việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết ! Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần. Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc. Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ. Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội. Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ : Nhà cao cửa rộng, đi Mercedec, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện ( !) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt…Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay. Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống…thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay. Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.
Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở : Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ…đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp… Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòa toàn có tự do tôn giáo. Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa…là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách. Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với chùa, nhà thờ bên cạnh !!! Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền ! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ. Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình…thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá ! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay. Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại!.
Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo. Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật…
Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa, và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng ? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.
Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm !
Trước năm 1957 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung…Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy…Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp…) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu…giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác của mình để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn quá lớn, làm sao cho trọn kiếp tu !!!
Xin kết thúc bài viết : Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa…nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.
ST
No comments:
Post a Comment