-
Tự chính chúng ta và tất cả những chúng sinh khác muốn hạnh phúc và hoàn toàn
thoát khỏi khổ đau. Trong điều này chúng ta thật sự bình đẳng. Tuy vậy, mỗi
chúng ta chỉ là một cá thể, trong khi những chúng sinh khác là vô lượng.
- Có hai
thái độ để quan tâm: đó là vị kỷ yêu mến chính chúng ta và đó là yêu mến những
những người khác. Thái độ tự yêu mến một cách vị kỷ làm cho chúng ta cứng nhắc,
chúng ta nghĩ là chúng ta cực kỳ quan trọng và khao khát căn bản của chúng ta là
cho chính chúng ta được hạnh phúc và cho mọi thứ diễn tiến tốt đẹp cho chúng
ta. Tuy vậy, chúng ta không biết làm thế nào để đem đến điều này. Trên thực tế
là hành động yêu mến vị kỷ không bao giờ làm cho chúng ta hạnh phúc. Những ai đó
có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính
mình và đánh giá sự giúp đở người khác trên tất cả những thứ khác, và, hành động
trong cách này, ngẫu nhiên tự họ trở nên rất hạnh phúc.
- Tạm thời bỏ qua một bên tôn giáo, đời sống
tái sinh và niết bàn, ngay cả trong đời sống hiện tại những người vị kỷ đem đến
những phản ứng tiêu cực ngược lại cho chính họ bởi những hành động của vị kỷ của
họ. Người chân thành cống hiến cả cuộc đời và năng lực vô vị lợi phục vụ cho
những người nghèo túng, khốn cùng, và neo đơn, luôn luôn được ghi nhớ bởi những
hành động cao quý của họ, với sự kính trọng; những người khác không có bất cứ
điều gì tiêu cực để nói về họ.
- Đây là kết quả của sự yêu mến những kẻ
khác: cho dù chúng ta có muốn hay không, ngay những kẻ không phải là người thân
cũng luôn luôn yêu thích chúng ta, cảm thấy vui vẻ với chúng ta và có một cảm
giác ấm áp đối với chúng ta. Nếu chúng ta là loại người luôn luôn nói năng lich
sự trước mặt những người khác những lại nói xấu sau lưng họ, dĩ nhiên, không ai
thích chúng ta.
- Trong đời sống này, nếu chúng ta cố gắng
giúp đở kẻ khác bằng nổ lực tối đa mà chúng ta có thể làm và có ít nhất những tư
tưởng ích kỷ, chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm của hạnh phúc. Đời sống chúng ta
không quá dài; một trăm năm là tối đa. Nếu trãi qua đời sống này chúng ta cố
gắng ân cần, với một trái tim ấm áp, lưu tâm cho lợi ích của những người khác và
ít vị kỷ cùng sân hận, điều ấy sẽ thật tuyệt vời, xuất sắc, điều ấy thật sự là
nguyên nhân của hạnh phúc.
- Đừng lo lắng về kiếp sống tới hay niết bàn;
những việc này sẽ tiến đến dần dần. Nếu trong kiếp sống này chúng ta thể hiện
là một người tốt, ấm áp, không ích kỷ, chúng ta sẽ là một công dân tốt của thế
giới. Cho dù chúng ta là một Phật tử, một Ki tô hữu hay là một người cộng sản
không quan hệ; điều quan trọng là khi nào chúng ta vẫn là một con người chúng ta
nên là một con người tốt. Đấy là giáo nghĩa của Đạo Phật; đấy cũng là thông
điệp của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.
- Tâm thức chúng ta cực kỳ giảo quyệt và rất
khó kiểm soát, nhưng nếu chúng ta tiến hành những tác động ảnh hưởng liên tục và
kiên định, hành động không mệt mõi với suy luận hợp lý và phân tích cẩn thận,
chúng ta sẽ có thể kiểm soát và chuyển hoá nó tốt hơn.
- Nếu chúng ta nuôi dưỡng, ấp ủ những tâm tư
phiền não tiêu cực như giận tức chúng sẽ trở thành một thành phần của mỗi chúng
ta; mỗi lần chúng ta biểu lộ giận dữ nó trở nên dễ dàng để biểu lộ như thế một
lần nữa. Chúng ta cứ làm như thế lần này rồi lần khác cho đến khi chúng ta đơn
giản chỉ là một người cuồng dại hoàn toàn không thể kiểm soát. Vì vậy, trong
phạm trù của những vấn đề tinh thần, có những điều nào đấy thích đáng để bày tỏ
còn những vấn đề khác thì không nên.
- Trước tiên chúng ta cảm thấy khó khăn trong
việc cố gắng để kiểm soát những tâm tư phiền não tiêu cực. Ngày đầu tiên, tuần
đầu tiên, tháng đầu tiên chúng ta không thể kiêm soát chúng tốt đẹp được. Nhưng
với sự liên tục tác động những tiêu cực của chúng ta sẽ dần dần giảm xuống.
Tiến trình trong sự tu dưỡng phát triển tâm không phải đến từ việc dùng thuốc
uống hay những thứ hóa chất khác; nó tùy thuộc vào việc kiểm soát tâm.
- Chúng ta có thể thấy rằng nếu chúng ta muốn
hoàn thành những nguyện ước của chúng ta, là tạm bợ tức thời hay căn bản rốt
ráo, chúng ta nên hướng thệ nguyện đến những chúng sinh khác nhiều hơn cả là
những viên ngọc ước và luôn luôn yêu mến họ trên tất cả những thứ khác.
- Nếu chúng ta không có động cơ trong sạch,
bất cứ những gì chúng ta làm có thể không hoàn thiện, không toàn hảo, không thỏa
mãn. Vì vậy, việc trước nhất chúng ta nên làm là phát triển động cơ trong sạch.
Nhưng chúng ta không phải chờ cho đến khi động cơ ấy hoàn toàn phát triển trước
khi thật sự hành động giúp đở những kẻ khác. Dĩ nhiên, để giúp đở những kẻ khác
trong những phương thức hữu hiệu nhất có thể chúng ta phải hoàn toàn giác ngộ
như những Đức Phật.
- Giúp đở những người khác trong những phương
thức rộng lớn bao quát cùng khắp, chúng ta cần đạt đến những tầng bậc của một vị
Bồ tát, đấy là, phải có kinh nghiệm trực tiếp, nhận thức vô phân biệt thực tại
của tính không và phải đạt đến những năng lực ngoài những giác quan cảm giác
thông thường, tức là thần thông. Tuy vậy, có nhiều trình độ khác nhau để giúp đở
những người khác. Ngay cả trước khi chúng ta đạt đến những phẩm chất này chúng
ta có thể hành động như những vị Bồ tát, nhưng thông thường những hành động của
chúng ta kém hiệu quả hơn những vị ấy.
- Không phải đợi cho đến khi chúng ta đấy đủ
hoàn toàn những phẩm chất, mà chúng ta có thể phát sinh những động cơ tốt đẹp,
hảo tâm thiện ý và với sự cố gắng đấy để giúp đở những kẻ khác trong những
phương thức tốt nhất mà chúng ta có thể hành động. Điều này là một sự tiếp cận
cân bằng hơn và tốt hơn là chỉ đơn giản ẩn trú một nơi cô lập nào đấy để thiền
định và tụng niệm. Dĩ nhiên, điều này tùy thuộc rất nhiều trên từng cá nhân. Nếu
chúng ta tin tưởng rằng an trú tại một nơi biệt lập chúng ta có thể đạt được
những sự thực chứng rõ rệt trong một thời điểm nào đấy, đó lại là chuyện khác.
Có lẻ tốt nhất nên dành phân nửa thời gian của chúng ta để hoạt động và phân nửa
kia để thực tập thiền định.
- Không kể chúng ta là ai với chúng ta, chúng
ta thường nghĩ những việc như, “Tôi mạnh hơn người kia, “ tôi đẹp hơn người
kia”, tôi thông minh hơn người kia,” tôi giàu có hơn”, tôi xứng đáng hơn người
kia rất nhiều”, v.v và v.v…- chúng ta phát sinh rất nhiều tự hào. Điều này
không tốt. Thay vì vậy, chúng ta nên luôn luôn duy trì khiêm tốn. Ngay cả khi
chúng ta giúp đở những kẻ khác và tham gia vào hoạt động từ thiện, chúng ta
không nên xem chính mình trong cách kiêu căng như những người hộ vệ vĩ đại lợi
ích những kẻ yếu. Điều này cũng là kiêu ngạo. Tốt hơn, chúng ta nên liên hệ
trong những hành động như thế một cách thật khiêm tốn và nghĩ rằng chúng ta dâng
hiến sự phụng sự của chúng ta đến mọi người.
- Khi chúng ta so sánh chúng ta với những con
thú, thí dụ, chúng ta có thể nghĩ, “ta có thân thể một con người” hay “ta là
người thọ giới” và cảm thấy cao hơn những người khác. Cũng từ quan kiến ấy,
chúng ta có thể nói rằng chúng ta có thân thể con người và đang thực hành lời
Phật dạy và vì vậy chúng ta thật rất là hơn hẳn những côn trùng. Nhưng bằng
cách khác, chúng ta có thể nói rằng những côn trùng thì thật vô tội và chẳng
bao giờ lừa đảo, nhưng trái lại chúng ta thường dối trá , xuyên tạc, bóp méo
chính mình trong trong những cách không thành thật để đạt đến mục tiêu cuối cùng
hay tự làm mình hơn những người khác. Từ quan kiến này chúng ta phải nói là
chúng ta thật tệ hơn những côn trùng, điều mà chúng chỉ tiến đến những hành động
của chúng mà không giả vờ bất cứ điều gì. Đây là một phương pháp rèn luyện
trong khiêm tốn nhún nhường.
- Nếu khảo sát tâm chúng ta tại những thời
điểm mà chúng ta thật ích kỷ và bận rộn với chính mình để loại trừ những người
khác, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức phiền não tiêu cực là gốc rể của thái độ
này. Vì lẻ chúng quấy rầy tâm chúng ta cực độ, thời điểm chúng ta để ý rằng
chúng ta đang tiến đến gần sự ảnh hưởng của chúng, chúng ta nên áp dụng một số
biện pháp hóa giải chúng. Đối thủ phổ thông với tất cả những tâm thức phiền não
là thiền định trên tính không, nhưng cũng có thuốc giải đến từng loại đặc hữu
mà chúng ta những người mới bắt đầu có thể áp dụng. Vì vậy, đối với chấp ngã,
thủ trước, dính mắc, chúng ta thiền định trên tính xấu xí; với giận tức , trên
yêu thương; với mù quáng si mê, trên duyên khởi; cho nhiều tư tưởng phiền não,
trên hơi thở và năng lựơng của gió.
- Mười hai nhân duyên, hay duyên khởi tùy
thuộc tương liên. Chúng bắt đầu bằng vô minh và đi qua đến già và chết. Trên
những trình độ vi tế hơn chúng ta có thể dùng duyên khởi như một nhân để chứng
minh rằng mọi sự, mọi vật thì trống rỗng trong sự hiện hữu thật sự.
- Một loại yêu thương khác, sự ân cần tử tế,
nó không căn cứ trên lý do rằng “những người như vậy và như thế là xinh đẹp, vì
vậy, tôi phải tôn trọng và tử tế.” Căn bản thiết yếu của lòng yêu thương tinh
khiết là, “Đây là một chúng sinh muốn vui tươi hạnh phúc, không muốn phiền muộn
khổ đau và có quyền để hạnh phúc. Vì vậy, tôi nên cảm nhận yêu thương và từ
bi.” Loại yêu thương này hoàn toàn khác biệt với loại yêu thương đầu tiên, điều
căn cứ trên sự si mê vô minh và vì vậy hoàn toàn không lành mạnh, không chính
đáng. Đấy là những lý do của lòng yêu thương rộng lớn hay từ bi là lành mạnh,
chính đáng, đúng đắn.
- Chúng ta nên nghĩ, “người kia là một con
người như tôi. Chắc chắn là tôi muốn hạnh phúc; vì vậy, người ấy cũng phải muốn
hạnh phúc. Như một chúng sinh tôi có quyền để hạnh phúc; cùng lý do ấy, người
kia cũng thế, có quyền để hạnh phúc an lạc. “Lý do chính đáng này cho khởi lên
một lòng yêu thương và từ bi. Thế thì không cần biết quan niệm của chúng ta với
sự thay đổi của người kia là thế nào – từ tốt đến xấu đến vô cùng tệ hại -
người kia luôn luôn căn bản là một chúng sinh. Vì vậy, lý do chính để hiển lộ
lòng từ bi yêu thương là luôn luôn ở đấy, cảm nhận của chúng ta đối với người
kia là kiên định một cách toàn hảo.
- Thuốc giải độc cho sân hận-giận tức là thiển
định về yêu thương, bởi vì sân hận-giận tức là một tâm thức rất thô lổ, sống
sượng, cộc cằn vì thế cần được làm dịu dàng, mềm mỏng với tình yêu thương.
- Khi chúng ta vui thích với những đối tượng
mà chúng ta nối kết, gắn bó, hay dính mắc, chúng ta chắc chắn trải qua kinh
nghiệm hân hoan, khoái lạc hay thú vị; nhưng như Tổ Long Thọ đã từng nói, điều
ấy như có một mụn ngứa và gảy ngứa; nó cho chúng ta sự thích ý nhưng chúng ta sẽ
khá hơn nếu trước tiên chúng ta đừng có cái mụn ngứa ấy. Cũng giống như thế, khi
chúng ta nhận được những thứ mà với chúng, ta bị ám ảnh, mê thích chúng ta cảm
thấy vui sướng, nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu chúng được tự do với điều mà chúng
ta bị dính mắc,vướng bận, mong mỏi và là nguyên nhân để chúng ta trở nên bị ám
ảnh với những thứ ấy.
- Nếu có những người xỉ vả, ngược đãi hay bình
phẩm, chỉ trích chúng ta, nói rằng chúng ta kém cõi, bất tài, không đủ khả năng
làm bất cứ việc gì, v.v…, chúng ta chắc là có thể rất giận dữ và phản bác lại
những gì người kia nói. Chúng ta không nên hành động như vậy, thay vì thế, với
sự khiêm tốn và bao dung, chúng ta nên chập nhận những gì đã được phát
biểu.
- Nơi mà nói rằng chúng ta nên chấp nhận thất
bại và nhường sự thắng lợi cho người khác, chúng phải phân làm hai loại khác
nhau của tình trạng. Nếu một mặt, chúng ta bị ám ảnh với lợi ích của chính
chúng ta và động cơ rất là ích kỷ, chúng ta nên chấp nhận thua cuộc và nhường
chiến thắng cho kẻ khác, ngay cả có thể đời sống chúng ta bị lâm nguy. Nhưng có
thể về phương diện khác, trường hợp tình trạng như vậy mà quyền lợi của những kẻ
khác bị lâm nguy, chúng ta phải hành động thật năng nổ và đấu tranh vì quyền
lợi của những người khác, và không chấp nhận thua cuộc với bất cứ giá nào.
- Một trong bốn mươi sáu thệ nguyện của một vị
Bồ tát liên hệ đến một trường hợp khi mà ai đấy làm những hành vi rất là tai hại
và chúng ta phải dùng đến những biện pháp vũ lực hay bất cứ cách nào khác cần
thiết để chấm dứt những hành vi bạo ngược của kẻ ấy lập tức – nếu chúng ta không
hành động, chúng ta vi phạm lời thệ nguyện ấy.
- Thệ nguyện của một vị Bồ tát đáp ứng với một
tình trạng mà điểm chính yếu là sự quan tâm của một người đối với quyền lợi của
những kẻ khác: nếu ai đấy đang làm những hành vi cực kỳ tai hại và nguy hiểm thì
thật là sai lầm nếu không có những hành động mạnh mẻ để chấm dứt chúng, nếu cần
thiết.
- Ngày nay, ngay trong những xã hội tranh đua,
những hành động tự vệ mạnh mẽ hay tương tự như thế thì thường luôn luôn được đòi
hỏi. Động lực như thế này không nên bị ích kỷ nhuốm màu nhưng là những cảm
giác rộng rãi bao la của ân cần và từ bi yêu thương đối với kẻ khác. Nếu chúng
ta hành động với những cảm nhận, ý thức như thế để hổ trợ, cứu giúp kẻ khác
tránh khỏi tai họa do những nghiệp cảm tiêu cực tạo ra, điều này hoàn toàn đúng
đắn.
- Tịch Thiên Tôn giả nói rằng những lợi ích
của những hành động được làm với tâm bồ đề có tác dụng nhiều hơn là những tiêu
cực đối với khi hành động không có động cơ như thế. Mặc dù nó cực kỳ quan
trọng, những có thể đôi khi thật khó khăn để thấy lằn ranh giữa điều gì nên làm
và điều gì không nên làm, vì vậy, chúng ta nên học hỏi những kinh luận giải
thích về những điều như thế. Trong những luận giải thấp hơn nó sẽ nói rằng
những hành vi nào đấy là bị cấm đoán trong khi những luận giải cao hơn nói với
chúng ta rằng cũng cùng những hành vi ấy nhưng được cho phép. Càng thông hiểu
hơn về tất cả những điều này nó càng dễ dàng hơn, nó sẽ được quyết định điều gì
nên làm trong bất cứ mọi trạng huống.
- Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai
đấy mà mình từng giúp đở những gì to tát là phải rất biết ơn chúng ta và nếu họ
lại hành động đến mình với sự vô ơn chắc là chúng ta phải giận dữ. Trong những
trường hợp như thế, chúng ta không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành
nhẫn nại. Hơn thế nữa, chúng ta nên thấy những người như thế là những vị thầy
thử thách sự nhẫn nhục của chúng ta và vì thế nên đối xử với họ một cách tôn
trọng. Đề mục này chứa đựng tất cả trong “Hướng
dẫn lối sống của Bồ tát” về nhẫn nhục.
- Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu
tình chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế nào để lìa xa
đau khổ. Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh vác tất cả những khổ đau và nghiệp
báo tiêu cực và nguyện cầu cho nó chín muồi, trổ quả trên chính chúng ta ngay
lập tức. Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng hạnh phúc,
họ tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp được hạnh phúc. Vì vậy, không
có chút gì bỏn xẻn xan lẫn, chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc
của chúng ta – thân thể, phú quý và công đức – và cầu nguyện cho những điều này
chin muồi, kết quả trên họ ngay lập tức. Không chắc rằng chúng ta thật thực sự
có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh phúc của chúng ta
cho họ hay không. Nhưng khi những hoán chuyển như thế giữa những hữu tình chúng
sinh thật sự xảy ra, nó là kết quả của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất
mạnh mẻ nào đấy từ quá khứ kiếp. Tuy thế, sự thiền định đề mục này là rất mãnh
liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong tâm chúng ta và vì thế là
một thực hành có lợi ích cao thượng.
- Trong “Bảy
điểm chuyển hóa tâm” nói rằng chúng ta nên luân phiên thực hành “cho và
nhận” và trang bị chúng trên từng hơi thở. Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng
những điều này nên được hoàn thành một cách bí mật. Khi nó được giải thích
trong “Hướng
dẫn lối sống của Bồ tát”, điều thực hành này không thích hợp với tâm lý
những Bồ tát sơ tâm – nó là những gì được chọn lựa ở một số ít hành giả. Vì
thế, nó được gọi là bí mật.
- Tôn Giả Tịch Thiên (Shantideva) đang nói
rằng tại nhưng thời điểm khi những tư tưởng tự luyến ái khởi lên mảnh liệt chúng
ta phải tranh luận rất mạnh mẻ với chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động
đầy sức thuyết phục để chinh phục hay làm dịu chúng xuống; trong ý nghĩa khác,
chúng ta phải tự làm tổn hại hay hao mòn tâm thức tự ngã ái luyến chính mình.
Chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa cái "tôi" hoàn toàn bị ám thị với những
quyền lợi của chính nó và cái "tôi" sẽ trở nên giác ngộ: đấy là một sự khác
biệt lớn lao.
- Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu
nó lợi ích ngay cả cho một chúng sinh, nó xứng đáng cho chúng ta đảm đương trên
chính mình những khổ đau hiện hữu trong tam giới hay đi đến một trong những địa
ngục, và chúng ta nên có sự can đảm, dõng cảm để làm điều này. Để đạt đến giác
ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, quyết tâm và tự nguyện để
sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A tỳ, trong thời gian vô tận. Đây là ý nghĩa
của việc đảm đương những tổn hại, điều làm khổ sở, đớn đau,ưu phiền của kẻ khác
trên chính chúng ta. Nếu chúng ta phát triển một nguyện ước mãnh liệt, chân
thành để tái sinh trong những cảnh giới thấp nhất vì lợi ích của những chúng
sinh khác, chúng ta sẽ tích tập được một công đức to lớn vô biên và điều ấy sẽ
mang đến những kết quả ngược lại.
- Tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta ích
kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông minh. Thực tế, hay hẹp hòi, ích kỷ
làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật quả.
Điều ấy thật sự thông tuệ! Bất hạnh thay, điều chúng ta thường làm trước nhất
là đến với Phật quả. Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt đến Phật quả
chúng ta cần tâm bồ đề và nếu không có nó chúng ta không thể trở nên giác ngộ;
vì vậy chúng ta nghĩ, "tôi
muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bồ đề tâm." Chúng ta không quá
quan tâm nhiều đến bồ đềtâm cũng như Phật quả. Điều này là sai lầm một cách
chắc chắn. Chúng ta phải làm ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ
làm thế nào để giúp kẻ khác.
- Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể
giúp đở cho người khác hay chính mình. Chúng ta làm thế nào để giúp? Không
phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì đấy hay thi thố thần thông, nhưng bằng
diễn giảng giáo pháp. Tuy nhiên, trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để
giảng dạy.
- Để có thể hổ trợ những người khác trong
phương pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng dẫn họ theo toàn bộ con đường giác ngộ,
trước hết chúng ta phải giác ngộ cho chính mình. Vì lý do này chúng ta nên thực
hành tâm bồ đề. Điều này hoàn toàn khác biệt với cách suy nghĩ thông thường của
chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải nghĩ về những người khác và dâng hiến
trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính
chúng ta. Cách này hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc, một loại lừa
phỉnh.
- Chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM
và dâng hiến công đức ấy cho sự nhanh chóng đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất
cả chúng sinh. Chúng ta có thể nói rằng chỉ bằng sự trì niệm mật ngôn chúng ta
sẽ tốc chứng giác ngộ, nhưng chúng ta có thể nói rằng những sự thọ trì như thế
hành động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ. Giống như thế, trong khi sự
thực hành giáo pháp của chúng ta sẽ không tự hổ trợ thân quyến của chúng ta
không đến những sự tái sinh thấp hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp
phần cho NHÂN này.
- Nếu sự hành trì của chúng ta hoạt động như
nguyên nhân chính yếu của một kết quả được trải nghiệm bởi những người khác, nó
sẽ mâu thuẩn với luật nghiệp báo, sự liên hệ giữa nguyên nhân và hiệu quả. Thế
thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghĩ ngơi thoãi mái và để chư Phật cùng các
vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; chúng ta sẽ không phải nhận lấy một trách
nhiệm nào đối với lợi ích của chính mình. Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã
từng nói rằng tất cả những gì ngài có thể làm là giảng dạy, chỉ dẫn chúng ta
giáo pháp, con đường giải thoát khỏi khổ đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng
ta đặt mình vào sự thực hành - Ngài đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy!
Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng ta tạo dựng mọi thứ
cho chính chúng ta, vì thế chúng ta là đạo sư của chính chúng ta - trong giới
hạn của luật nhân quả.
- Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng
ta làm việc lành chúng ta sẽ trải qua kết quả kinh nghiệm lành và nếu chúng ta
làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải qua những kinh nghiệm của bất hạnh, khổ
đau.
- Chúng ta nhận thức rằng, "điều
khổ đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm của tôi hoàn toàn, kết quả của những
hành động của chính tôi tạo nên trong quá khứ. Vì rằng tôi không thể tránh khỏi
nó tôi phải sống với nó. Tuy vậy, nếu tôi muốn tránh khổ đau trong tương lai
tôi cũng có thể hành động bằng sự phát triển đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn.
Tức tối hay giận dữ với khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực, nguyên
nhân của bất hạnh tương lai". Đây là một
cách thực hành nhẫn nhục.
- Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền
định trên sự khổ đau tự nhiên của thân thể: "Thân thể và tâm thức này là cơ sở
của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên và không có cách nào trông mong rằng
khổ đau ơi, đừng khởi lên." Loại nhận thức này hổ trợ rất hiệu quả cho việc
phát triển nhẫn nhục.
- Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau
hay một cơ hội để làm như thế, chúng ta không phải lo lắng. Nếu thật sự không
có gì chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo lắng cũng không giúp được gì cả.
Điều này thật đơn giản và rất rõ ràng.
- Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư
sự bất lợi của tức giận và thuận lợi của thực hành nhẫn nhục. Chúng ta là những
con người - một trong những phẩm chất hơn hẳn của chúng ta là khã năng suy nghĩ
và phán đoán của chúng ta. Nếu chúng ta mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta
mất đi khã năng để thực hiện những phán xét cụ thể và vì thế mất đi một trong
những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta có để giải quyết những vấn nạn: đấy là
tuệ trí của con người. Đây là những gì mà thú vật không có. Nếu chúng ta mất
đi nhẫn nhục, và lại cáu tức chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ quý giá này.
Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn nhiều để có can đảm và quyết định và
đối diện với khổ đau bằng nhẫn nhục.
- Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng
vào những khã năng và lòng tự hào của chúng ta. Chúng ta phải nên tin tưởng vào
bất cứ những phẩm chất và khã năng thiện xảo mà chúng ta có và sử dụng chúng một
cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta không nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo
mạn, tự mãn về chúng. Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường không có nghĩa là cảm
thấy hoàn toàn bất tài, kém cõi, và không tự lo liệu được. Sự khiêm tốn nhún
nhường được phát triển như sự đối lập với tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng
bất cứ những phẩm chất tốt đẹp nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó.
- Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự
đáp ứng rộng rãi của lòng can trường, quả cảm và năng lực nhưng không phải là sự
khoác lác, niềm kiêu hảnh hay làm một sự phô trương lớn về nó. Rồi thì, những
khi cần, chúng ta nên vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một cách
dõng mảnh cho những gì đúng. Điều này là toàn hảo. Nếu chúng ta không có những
phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác lác mọi nơi rằng ta vĩ đại thế nào và trong
khi cần thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ là ngược
lại. Người thứ nhất thì rất can đảm,quả cảm nhưng không tự hào; người kia thì
rất tự kiêu nhưng không có can trường, dũng cảm.
- Tất cả những thực hành trước nhất không nên
bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian
(Bát phong: khổ - vui, được – mất, hơn – thua, khen – chê). Tám điều này có thể
liên hệ như trắng, đen lẫn lộn. Làm thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn
sự thực hành của mình trong cách này? Bằng sự nhận thức tất cả sự hiện hữu hay
tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với sự tồn tại thật sự. Trong cách này,
một người được giải thoát khỏi trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.
- Để giải thích ý nghĩa của "ảo tưởng" ở đây:
sự tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh của nhiều đối tượng khác nhau, bất
cứ nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, nhưng thực tế không có sự tồn tại thật
sự ở đó. Sự tồn tại thật sự xuất hiện, nhưng không có gì- nó là một ảo tưởng.
Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện hữu một cách thật sự, nhưng nó thì
trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng. Thấy những đối tượng là trống rỗng của
hiện hữu - rằng ngay cả sự tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh,
hảo huyền, không thực có - một người phải nên định rõ sự hiểu biết về ý nghĩa
của tính không: tính không xuất hiện rõ ràng, sự xuất hiện rõ ràng của tính
không.
- Trước nhất chúng ta nên chắc chắn rằng tất
cả mọi hiện tượng là trống không của sự tồn tại thật sự. Rồi thì về sau, khi mà
có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiện là tồn tại một cách thật sự, người ấy phản
bác lại sự tồn tại thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của mình
trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự. Khi chúng ta đặt hai
điều này chung với nhau - sự hiện hữu của sự tồn tại thật sự và tính không của
nó như kinh nghiệm trước đây - chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện
tượng.
- Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là
những thứ tồn tại thực sự hay là không, thật sự có thể tìm thấy hay không: chúng
ta không thể tìm thấy chúng. Nhưng nếu chúng ta nói rằng chúng thật không tồn
tại gì cả, đây là một lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm về chúng.
Chúng ta không thể chứng minh qua lý luận hợp lý (logic) rằng những sự kiện tồn
tại một cách có thể tìm thấy, nhưng chúng ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng
tồn tại. Vì vậy, chúng ta có thể làm một kết luận rõ ràng rằng những thứ ấy quả
tồn tại. Bây giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai cách trong điều chúng có
thể làm như thế: hoặc là từ căn bản của chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm
soát của những nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ
thuộc. Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng những thứ ấy tồn tại một
cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng có thể tồn tại một cách phụ thuộc.
--------------------------------------------------
- Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho
sự tồn tại cuả chúng? Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn nhãn hiệu và sự tư
duy những nhãn hiệu ấy. Nếu chúng có thể tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải
tồn tại bởi tính tự nhiên của chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng,
những thứ ấy không tồn tại bởi tinh tự nhiên của chính chúng, sẽ là sai. Tuy
nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ ấy khi truy tầm chúng. Những gì
chúng ta tìm thấy tồn tại dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều
được nói là tồn tại chỉ đơn thuần trong danh xưng.
- Từ ngữ “đơn thuần” ở đây chỉ cho biết là
những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải là
danh xưng, nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một tâm thức
có căn cứ. Chúng ta không nói rằng không có ý nghĩa gì đến những thứ khác hơn
là những danh xưng của chúng, hay là ý nghĩa không phải là danh xưng không là
đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó tồn tại
bởi những thứ khác hơn là năng lực của những danh xưng.
-Những thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của
danh xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý nghĩa ấy là đối tượng của một tâm thức
có sở cứ. Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy là chúng tồn tại thường là bởi
năng lực của danh xưng.
- Không có
cách nào khác, chỉ là năng lực của danh xưng. Điều ấy không có nghĩa là bên
cạnh danh xưng không có gì. Có sự kiện, có một ý nghĩa và có một danh xưng. Ý
nghĩa là gì? Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng. Theo trường phái
Trung Quán Prasangika, quan điểm cơ bản, chính xác nhất, cũng giống như thế cho
dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là nhận thức bên trong hiểu rõ, thấy rõ,
nhận thức thấu đáo nó: cả hai tồn tại bởi năng lực của danh xưng; không có thứ
nào thật sự tồn tại. Tư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh xưng; tính
không, Phật, tốt, xấu, và trung tính cũng thế thôi. Mọi thứ tồn tại duy chỉ bởi
năng lực của danh xưng.
- Khi chúng
ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào để hiểu nó có ý nghĩa gì khác
hơn là nó cắt đứt những ý nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là danh xưng. Thí
dụ, nếu chúng ta lấy một người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai là giống
nhau trong điều họ tồn tại chỉ đơn thuần là danh xưng, nhưng có một sự khác nhau
giữa họ. Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại chỉ đơn thuần là nhãn hiệu
gắn lên, nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại và những thứ khác không tồn
tại.
- Theo
trường phái Duy thức những hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại, nhưng
thực tế là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm thức là
thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do thử bỉ
giai vô, Cố nhất thiết duy thức). Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ
về giáo lý đạo Phật.
- Khi chúng
ta nói về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thần và tỉnh thức của giác quan,
và trước đây có nhiều sự phân chia thành những trình độ của thô và vi tế.
Trích từ
bài The Eight Verses of Thought
Transformation
Ẩn Tâm Lộ
ngày 14-3-2013
No comments:
Post a Comment