Trong tiếng Việt chúng ta xử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả.
I. Từ láy và từ có dạng láy:
• Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...
• Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...
Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:
ã | ầm ã, ồn ã |
sã | suồng sã |
thãi | thưà thãi |
vãnh | vặt vãnh |
đẵng | đằng đẵng |
ẫm | ẫm ờ |
dẫm | dựa dẫm, dọa dẫm, dò dẫm |
gẫm | gạ gẫm |
rẫm | rờ rẫm |
đẫn | đờ đẫn |
thẫn | thờ thẫn |
đẽ | đẹp đẽ |
ghẽ | gọn ghẽ |
quẽ | quạnh quẽ |
kẽo | kẽo kẹt |
nghẽo | ngặt nghẽo ?? |
nghễ | ngạo nghễ |
nhễ | nhễ nhại |
chễm | chiễm chệ |
khễng | khập khễng |
tễng | tập tễnh |
nghễu | nghễu nghện |
hĩ | hậu hĩ |
ĩ | ầm ĩ |
rĩ | rầu rĩ, rầm rĩ |
hĩnh | hậu hĩnh, hợm hĩnh |
nghĩng | ngộ nghĩnh |
trĩnh | tròn trĩnh |
xĩnh | xoàng xĩnh |
kĩu | kĩu kịt |
tĩu | tục tĩu |
nhõm | nhẹ nhõm |
lõng | lạc lõng |
õng | õng ẹo |
ngỗ | ngỗ nghịch, ngỗ ngược |
sỗ | sỗ sàng |
chỗm | chồm chỗm |
sỡ | sặc sỡ, sàm sỡ |
cỡm | kệch cỡm |
ỡm | ỡm ờ |
phỡn | phè phỡn |
phũ | phũ phàng |
gũi | gần gũi |
hững | hờ hững |
Ngoài ra còn có 19 âm tiết dấu ngã khác dùng như từ đơn tiết mà có dạng láy ví dụ như:
cãi cọ
giãy giụa
sẵn sàng
nẫu nà
đẫy đà
vẫy vùng
bẽ bàng
dễ dàng
nghĩ ngợi
khập khiễng
rõ ràng
nõn nà
thõng thượt
ngỡ ngàng
cũ kỹ
nũng nịu
sững sờ
sừng sững
vững vàng
ưỡn ẹo
Tiếng Việt gồm hai
loại, tuy liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ:
- Tiếng HÁN VIỆT là
chữ Hán đọc theo giọng Việt.
- Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hóa.
- Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hóa.
1. Tiếng Hán Việt
Tiếng Hán-Việt là tiếng mượn của tiếng Hán nhưng đọc theo
giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán-Việt là những tiếng gồm hai tiếng trở
lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá,
dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng 60% là tiếng Hán-Việt.
Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán-Việt trong mọi giao tiếp và nói năng hằng
ngày.
Ví dụ: "Hôm qua nghiệp đoàn công nhân tổ chức
hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm". Chỉ có hai chữ
thuần Việt là "hôm qua", còn các chữ khác đều là
tiếng Hán-Việt.
Tiếng Hán-Việt có quy luật riêng về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu
xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán-Việt thì chúng ta đã giải quyết được
hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã
Tiếng Hán-Việt có hai đặc tính:
1.
Về
Chánh tả: giữa âm và giọng
có sự liên quan chặt chẽ
Các
tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng một Nguyên-âm, chỉ có thể có
dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu.
Các
tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng các Phụ-âm: L, M, N,
NG, NH, D, V, chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng.
2.
Về
vị trí của các tiếng dùng
chung:
Tiếng Chỉ-định luôn luôn đứng trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ-pháp
đặt ngược,
Ví dụ: Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho
rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng
Cách Nhận Biết Tiếng Hán Việt:
1. Các tiếng Hán-Việt
thường không tách ra dung riêng một mình mà phải dung trọn từ:
Chẳng hạn chỉ có thể nói làm thương
mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc nói làm
chánh trịchớ không thể nói làm chánh, làm trị v.v….
Vậy mỗi khi gặp một từ ghép, ta thử tách các
tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được, thì đó là
một tiếng Hán-Việt.
2.
Về nghĩa của một tiếng
Hán-Việt:
Các tiếng hợp lại để làm thành một từ Hán-Việt
đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người không có một
trình độ Hán học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các chữ: dĩ,
nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi nghĩa
thế nào thì không dễ trả lời.
Cho nên khi gặp một từ ghép, nếu cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví
dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm, thì đó là từ Hán-Việt.
Còn
các Tiếng-Nôm-đôi và Tiếng-Nôm-Lấp-láy thì đều có khả năng dùng riêng ra từng
chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa,
máy bay, tàu ngầm, xe đạp.
Do đó, dựa vào cách phân biệt như trên, chúng ta dễ dàng biết được
tiếng nào là tiếng Hán-Việt và tiếng nào là Tiếng Nôm.
a.
Tóm lại: Tất cả tiếng
HÁN-VIỆT khởi đầu bằng các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều
viết DẤU HỎI vì các nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc
Thanh-âm (Bổng)
Ví dụ: Ải quan, Ảnh
hưởng, Ẩm thực, Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng.
Phụ chú: Sách của G.s.
Lê-ngọc-Trụ có ghi Ê và I vào nhóm nguyên âm nầy. Nhưng vì chữ HÁN-VIỆT không
có chữ nào khởi đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai nguyên âm nầy
vào, cho người học đỡ mệt trí [Đ-s-T].
b.
Tất cả tiếng HÁN VIỆT
khởi đầu bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU
HỎI vì các phụ-âm nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng).
Ví dụ:
- CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ
tọa, CHưởng quản.
- GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường,
GIảo quyệt, học GIả.
- KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng
giáo, KHủng hoảng
- PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ
nhận. (trừ PHẫn nộ)
- THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ
Mâu THuẫn, Phù THũng)
- Sản
khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học
trò)
- Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã
hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)
Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả đừng lẫn lộn
tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây:
CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo, từ giã); GIÃI
(giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị giãn); PHŨ (phũ
phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng).
c.
Tất cả tiếng HÁN VIỆT
khởi đầu bằng Bảy phụ âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc-âm,
cho nên viếtDẤU NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu).
Ví dụ:
- Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ
nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
- Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ,
Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
- Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ
- NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
- NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
- NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm
bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
- Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng
cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
- Vãn .bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh
viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.
Xin đừng lộn tiếng Hán-Việt với những tiếng Nôm sau đây:
- LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng vảng); LẢNH
(lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM (cờ bạc đặt
tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng);
- MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai);
MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
- NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
- NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
- NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ
(vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
- DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
- VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN
(viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò)
d.
Mấy phụ-âm khởi-đầu
khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh
và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật "Thanh
viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÃ".
Vì giọng Ngã ít hơn tiếng giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây
các tiếng Hán-Việt giọng Ngã của mấy phụ-âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn
đọc
Bãi
|
:
|
thôi, nghỉ (bãi
công, bãi khóa, bãi thị)
|
Bão
|
:
|
ẵm bồng (hoài
bão, bão hòa, bão mãn)
|
Bĩ
|
:
|
xấu (bĩ cực thái
lai, bĩ vận)
|
Cưỡng
|
:
|
gắng ép (cưỡng
bách, cưỡng chế)
|
Cữu
|
:
|
cậu vua (quốc
cữu), hòm (linh cữu)
|
Đãi
|
:
|
thết, xử với (đãi
bôi, bạc đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh)
|
Đãng
|
:
|
rộng, phóng túng
(đãng tử, du đãng)
|
Đễ
|
:
|
kính nhường (hiếu
đễ)
|
Điễn
|
:
|
điện (điễn khí,
điễn học, điễn lực)
|
Đỗ
|
:
|
họ Đỗ, chim đỗ
quyên, cây đỗ trọng
|
Hãi
|
:
|
kinh sợ (kinh
hãi, hãi hùng, sợ hãi)
|
Hãm
|
:
|
xông phá (hãm
địch, hãm trận)
|
Hãn
|
:
|
mồ hôi (xuất hãn,
phát hãn, liễm hãn)
|
Hãnh
|
:
|
may mắn (hãnh
diện, kiêu hãnh)
|
Hoãn
|
:
|
chậm (trì hoãn,
hoãn đãi, hoãn binh)
|
Hỗ
|
:
|
lẫn nhau (hỗ trợ,
hỗ tương)
|
Hỗn
|
:
|
lộn xộn (hỗn
chiến, hỗn loạn, hỗn hợp)
|
Huyễn
|
:
|
hoa mắt (huyễn
hoặc, huyễn mục)
|
Hữu
|
:
|
có (hữu cơ, hữu
hạn, hữu dụng, hữu lý)
|
Kỹ
|
:
|
tài năng (kỹ sư,
kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo)
|
Quẫn
|
:
|
khốn đốn (quẫn
bách, cùng quẫn)
|
Quỹ
|
:
|
tủ cất tiền (thủ
quỹ, công quỹ, ký quỹ)
|
Tễ
|
:
|
thuốc huờn (dược
tễ, điều tễ, thuốc tễ)
|
Tiễn
|
:
|
đưa (tiễn biệt,
tiễn hành, tiễn khách)
|
Tiễu
|
:
|
dẹp trừ (tiễu
trừ, tuần tiễu, tiễu phỉ)
|
Tĩnh
|
:
|
im lặng (tĩnh
dưỡng, tĩnh mịch)
|
Tuẫn
|
:
|
liều chết (tuẫn
tiết, tuẫn nạn)
|
Trãi
|
:
|
Nguyễn-Trãi
|
Trẫm
|
:
|
tiếng vua tự xưng
|
Trĩ
|
:
|
trẻ (ấu trĩ),
bịnh trĩ (trĩ nội, trĩ ngoại)
|
Trữ
|
:
|
chứa (lưu trữ, oa
trữ, tàng trữ, tích trữ)
|
CÁCH NHỚ LUẬT
HỎI NGÃ CHO TIẾNG VIỆT
Xem vậy Luật viết dấu Hỏi
Ngã cho tiếng Hán-Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một
cách dễ dàng
a.
Chỉ cần nhớ những trường
hợp viết dấu Ngã trong tiếng Hán-Việt, tức là nhớ BẢY phụ âm đầu viết dấu Ngã
và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã. Các trường hợp viết dấu hỏi không cần nhớ vì
các tiếng Hán-Việt có âm đầu khác hơn Bảy phụ âm nói trên đều viết dấu hỏi
b.
Để nhớ Bảy Phụ-âm-đầu
viết dấu Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây:
Mình Nên NHớ Vũ Là Dấu NGã
(M
N Nh V L D Ng)
Như
vậy là bạn đã nắm được luật viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán-Việt. Còn các ngoại
lệ thì xin chịu khó học thuộc lòng.
3.
Tiếng
Nôm
Tất cả những tiếng
không phải là tiếng Hán-Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm
PHÂN BIỆT TIẾNG NÔM VÀ
TIẾNG HÁN-VIỆT:
1.
Về
ý nghĩa. Tiếng Nôm là những
tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra bằng một
tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm).
Ví dụ:
- tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói
sao hiểu vậy)
- tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà
thương), phi cơ (máy bay)
Tuy nhiên cũng có một số tiếng Hán-Việt không thể dịch ra bằng
một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả, hạnh phúc, thành công v.v…
Ngoài ra, nhiều tiếng Hán-Việt, nhất là những tiếng đơn được dùng
làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc Hán Việt) vẫn
giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao, lãnh v.v…
2.
Nhờ
quan sát Ngữ Pháp ta sẽ phân biệt tiếng Hán-Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng
Ví dụ:
- LẠC CẢNH: lạc (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh
từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, tức là thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy
LẠC là tiếng Hán-Việt
- TIỂU QUỐC: tiểu (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh
từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, thuộcNgữ-pháp đặt ngược. Vậy
TIỂU là tiếng Hán-Việt.
- GẠCH TIỂU: tiểu làm rõ nghĩa tiếng gạch.
Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức
thuộc Ngữ-pháp đặt xuôi.
Vậy tiểu nầy là TIẾNG NÔM GỐC HÁN VIỆT.
3.
Trong TIẾNG
ĐÔI thì:
- tiếng Nôm liên kết với tiếng Nôm
tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt:
Ví dụ:
- LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là
tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm
- TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là
tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm
- HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng
Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt
- LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng
Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.
Cũng có một số tiếng-đôi hợp thành bởi một tiếng Nôm và một
tiếng Hán-Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc biệt của những tiếng Hán-Việt đã
được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những tiếng Hán-Việt ấy mới có thể liên
kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng-ghép. Ví dụ:
- máu huyết: huyết là tiếng Hán-Việt có nghĩa
"máu". Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: cháo
huyết, huyết heo
- lý lẽ: lý là tiếng Hán-Việt có nghĩa "lẽ",
nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: lời nói có lý, không có lý nào.
- ưa thích: thích là tiếng Hán-Việt được dùng đơn độc làm
tiếng Nôm.
TIẾNG NÔM GỐC HÁN-VIỆT
Dấu giọng của những Tiếng-Nôm Chuyển gốc từ tiếng
Hán-Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là:
a.
khi tiếng HÁN GỐC
là một tiếng Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu
Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc Hán-Việtviết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC,
HỎI = HỎI)
hô > thở;
tu > sửa; giá > gả (con); giả > kẻ
b.
khi tiếng HÁN GỐC
là tiếng dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu
Ngã thì Tiếng-Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN,
NẶNG, NGÃ = NGÃ)
hàng > hãng (buôn);
kỵ > cỡi; dĩ > đã
c.
TRỪ ngoại lệ: ý > lẽ; miếu > miễu;
nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng,
ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ (rê)
TIẾNG
NÔM KHÔNG GỐC HÁN-VIỆT
Những Tiếng-nôm không
chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt thì gọi là TIẾNG-NÔM-LÕI. Có hai loại Nôm-Lõi:
Tiếng-Đơn và Tiếng-Đôi
1.
TIẾNG NÔM ĐƠN
Những Tiếng Nôm Đơn, trại
ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi
hay Ngã theo luật
kHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ
không dấu chuyển ra Hỏi và ngược lại như:
Cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa; không/khổng
quẳng/quăng; nhủi/chui
sắc chuyển
ra Hỏi và ngược lại:
búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn; rải/rưới:
Hỏi chuyển ra Hỏi:
bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ; nhỉ/rỉ
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng
Huyền chuyển
ra Ngã và ngược lại như:
cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi; lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi;
mõm/mồm; ngỡ/ngờ;
Nặng chuyển
ra Ngã và ngược lại như:
cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm; trĩu/trịu; chậm/chẫm
(chẫm rãi);
Ngã chuyển
ra Ngã:
đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi; ngẫm/gẫm; dõi/rõi;
giễu/riễu; ruỗng/rỗng;
TRỪ ngoại lệ:
gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi; mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu;
(mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng; rõ/tỏ; trội/trổi;
lõm/lóm;
2.
TIẾNG NÔM ĐÔI
Bởi tánh cách ĐỘC VẬN
(mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành.
Tiếng-Đôi để cho dịu
giọng:
TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn
TIẾNG GHÉP (là tiếng HÁN-VIỆT do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để
chỉ một ý niệm mới).
TIẾNG NÔM ĐÔI là
Tiếng-nôm do hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng.
* Có loại Tiếng Nôm
Đôi do Hai tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành
* Có loại Tiếng Nôm
Đôi khác, gọi là Tiếng Đôi LẤP-LÁY, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng
không nghĩa; hoặc do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà,
thuận tai, dễ đọc.
Tiếng Nôm Đôi mà CẢ
HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả
riêng của nó về Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh).
Ví dụ: mồ mả;
cú rũ; rỗi rảnh; bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt;
ủ rũ; sàng sảy; sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú
lẫn…
Tiếng Nôm Đôi còn chia
thành hai loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập.
Tiếng Nôm Đôi Độc
Lập là tiếng đôi mà hai
tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi.
Tiếng Nôm Đôi Liên
Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa
của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa:cà chua, máy cày,
xe đạp.
3.
TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY
Tiếng Nôm Đôi Lấp
Láy là những Tiếng-đôi gồm
hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít nhất là một
tiếng không có nghĩa.
Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ,
lạnh lùng, vội vàng, v. v... những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều
không có nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta
nhận ra.
Tiếng-đôi Lấp-láy dễ
dàng:
a.
Các mối lien hệ về âm
trong Tiếng Đôi Lấp Láy
i.
Liên
hệ ở phụ âm đầu. Có những Tiếng
Đôi chỉ láy lại phụ-âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi,
(l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng
ii.
Liên
hệ về vần. Có những Tiếng
Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm
bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ
iii.
Liên
hệ cả phụ-âm đầu lẫn vần. Có những Tiếng Đôi láy lại cả phụ-âm đầu lẫn vần như: cào
cào, ba ba, bươm bướm, rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh
Do
đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của phụ-âm đầu và
vần.
b.
Liên hệ về giọng điệu
i.
Cùng
một giọng điệu với nhau:
lui cui, lung tung (không
dấu)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)
ii.
Cùng một nhóm giọng với nhau:
Tiếng Việt được chia
thành hai nhóm giọng
Nhóm giọng cao gọi là
giọng Bổng.
Nhóm giọng thấp gọi là
giọng Trầm.
Nhóm cao (Bổng), gồm
có các giọng: Ngang (còn gọi là Không), Sắc, và Hỏi.
Nhóm thấp (Trầm), gồm
có các giọng: Huyền, Nặng, và Ngã.
Trong Tiếng Đôi Lấp
Láy, giọng của hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của
Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng
cao.
Ví dụ: vui vẻ,
mới mẻ, lửng lơ, nho nhỏ..
Ngược lại nếu một
tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví
dụ: mạnh mẽ, đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng…
Qui luật về giọng-điệu
giữa các tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận-thinh-âm (cũng
còn gọi là Luật Trầm Bổng)
KHÔNG, SẮC, HỎI đi với
HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi
với NGÃ
Tiếng đầu Không
dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì
tiếng sau phải bỏ dấu HỎI
Tiếng đầu dấu Huyền hoặc
dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ
dấu NGÃ
Thí dụ:
BỔNG
Không dấu đi chung với HỎI và
ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao,
lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ.
Sắc đi chung với HỎI và
ngược lại: mải miết, nhắc nhở,
thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt, khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ.
Hỏi đi chung với HỎI: hể hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải
hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng vửng.
TRẦM
Huyền đi chung với NGÃ và
ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã,
não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ càng, chẵn chòi, lời lãi..
Nặng đi chung với NGÃ và
ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ
dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn..
Ngã đi chung với NGÃ: dễ dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,.
Như vậy, theo luật nầy
thì khi gặp Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng,
chúng ta yên tâm viếtbẽ, rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng,
ràng, vàng, đã có dấu huyền.
Đối với Tiếng Đôi Lấp
Láy như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng
ta viết cãi, chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ,
chập, dọ, đẹp, là những chữ đã viết dấu nặng.
Đối với Tiếng Đôi Lấp
Láy như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết
dấu ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết
chắc lã và dễ phải viết dấu ngã.
Khi một chữ của Tiếng
Đôi Lấp Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu
hỏi chớ không thể viết dấu ngã
Ví dụ:
- cứng cỏi,
trống trải, trắng trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết
dấu sắc nên các chữ cỏi, trải, trẻophải viết dấu hỏi.
- trong trẻo,
bươn chải, trả treo vì các chữ trong, bươn, treo viết
không dấu nên các chữ trẻo, chải, trả phải viết
dấu hỏi
- các Tiếng Đôi Lấp
Láy như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì
các chữ lẩm, lủng, bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải
viết dấu hỏi
CÁCH NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY
Khi hai tiếng của một
từ mà hai phụ âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc
cả âm đầu lẫn vần đều giống nhau (cùng giọng
Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì đó là Tiếng Đôi Lấp Láy.
DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi mà cả hai tiếng đều
có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.
ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược trật tự của một tiếng-đôi mà
tiếng-đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi chưa bị đảo trật
tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.
Ví dụ: giữ
gìn, lả lơi, lơ lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng
Đôi Lấp Láy, vì khi đảo ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ,
lơi lả, lửng lơ, hững hờ).
TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT
DẤU GIỌNG: Có nhiều Tiếng-Đôi vì
muốn cho êm tai nên.
1)
phải bỏ bớt một dấu
giọng. Mấy tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không
phải tiếng đệm, nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu
theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe khẽ, là khẽ
khẽ; dê dễ là dễ dễ;đăng đẵng là đằng
đẵng
2)
Có nhiều Tiếng-Đôi bị
đổi giọng, như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ
càng trở thành kỹ cang.
Ngoài ra, NHỮNG
TIẾNG NÓI TẮT do ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói
thúc hai chữ thành một, theo lối giản ước). Ví dụ như:
Anh + ấy = ảnh;
bà + ấy = bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ;
hôm + ấy = hổm; mợ + ấy = mở; năm + ấy =nẳm;
thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy = con mẻ.
NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA
TIẾNG-ĐÔI (Không còn theo luật
Trầm Bổng)
bền bỉ, chàng hảng,
chèo bẻo, dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng
xẹt, lý lẽ, luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn,
nhểu nhão, phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng
thừa, thung lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.
MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ?
1)
Cách lẹ nhất là thử tìm
một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã.
Ví dụ chữ dễ
dãi: Chỉ cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang
dấu gì thì biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước.
Với chữ dễ ta có Tiếng đôi Lấp-láy dễ dàng. Với dễ
dàng ta biết chữdễ phải viết dấu ngã vì chữ dàng có
dấu huyền.
‘Khi đã biết chữ dễ viết
dấu ngã thì ta xác định được là chữdãi phải viết
dấu ngã do luật "HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ
Đối với các chữ mang
dấu Hỏi cũng làm như vậy
2)
Khi không tìm ra một
Tiếng-đôi Lấp-láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử
đưa nó vào loại chữ-láy bốn tiếng.
Ví dụ chữ đủng
đỉnh: Ta có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta
có lủng la lủng lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì
ta có thể khẳng định đủng và lủng phải viết dấu hỏi theo luật "KHÔNG, SẮC,
HỎI = HỎI". Khi đã biết đủng và lủng phải
viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng
phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI".
3)
Đối
với Tiếng-Nôm-đơn, và Chữ-ghép.
Khi gặp tiếng Nôm-đơn
hoặc một tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một
Tiếng-đôi Lấp-láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã.
Ví dụ 1: ta gặp các
chữ: nghỉ, nghĩ, dở, dễ, khoẻ... Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi
hay ngã. Ta xem tiếng Lấp-láy phải viết dấu gì?
nghỉ: nghỉ ngơi --> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi --> dấu ngã
dở: dở dang --> dấu hỏi
dễ: dễ dàng --> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn --> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi --> dấu ngã
dở: dở dang --> dấu hỏi
dễ: dễ dàng --> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn --> dấu hỏi
Ví dụ 2: như gặp
chữ sửa chữa, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã,
thì ta tách chữ đó ra để mà tìm.
Ta sẽ có
Tiếng-đôi sửa sang. Khi đã có sửa sang thì ta
yên tâm viết sửa với dấu hỏi vì "KHÔNG, SẮC, HỎI =
HỎI".
Đến chữ chữa thì
ta biết chữa là Tiếng-nôm có Gốc-Hán-việt là chữ Trị, vậy
phải viết dấu ngã, vì "HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ.
Ví dụ 3: gặp chữ ủ
rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách
chữ đó ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng-đôi Lấp-láy.
Ta sẽ có ủ ê.
Khi đã có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu
hỏi, vì ê là chữ không dấu, theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI =
HỎI.
Đến chữ rũ thì
ta có Tiếng-đôi Lấp-láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải
viết dấu ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật
"HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ.
CHÚ Ý: Khi tạo
Tiếng-đôi Lấp-láy để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng-đôi
Lấp-láy sao cho nghĩa của Tiếng-đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa
với chữ mình đang muốn tìm dấu.
Ví dụ: dễ (dễ
làm) và dễ trong Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng, dễ ợt, cùng
có nghĩa giống nhau.
No comments:
Post a Comment