Xe mì Tàu còn giữ đến
ngày nay (Ảnh chụp tại xe mì gần Hồ Con Rùa, Sài Gòn)
Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất
này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn
hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài
ra, còn phải kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội
trong việc hình thành ngôn ngữ vay mượn.
Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là
một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu,
tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh.
Ở đây, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa
mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các
Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày
16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì
khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên
kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có
nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống:
vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ
phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang
nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”
“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra;
mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người
đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình.
Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu
tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy
người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người
An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc…”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia
Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu
xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam,
chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người
bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa.
Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt
thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam,
“các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong
nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá.
Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài,
giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những
món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ
tíu Tiều Châu.
Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú
Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự
phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới
thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ
nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều
phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền
Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì
vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi
của người Hoa.
Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều)
tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá,
dầu lửa, thu mua sắt vụn… được chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng
9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động
mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa
đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ
còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí
kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc ba lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân
phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất
của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần
như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất
nhập cảng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.
Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật
đường chật sá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến
lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang.
Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người
Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan
Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài
Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp
thế giới sử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói
không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông,
nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều
trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên
thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam:
Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).
Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh
hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét.
Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu
lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn – Chợ Lớn cũng có lai rai
một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà
Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo nhà văn Bình-nguyên Lộc, thời tiền chiến
trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực
khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít, sữa
nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích
ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc
loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu
hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc.
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc.
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về.
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc.
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về.
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng
Khánh, Arc-en-ciel, Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu…
Cơm Tàu thường được để
trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung
với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo.
Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn
cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm
chút ớt là đã thấy ngon rồi.
Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì
những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm
Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi.
Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ
Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy
đây chỉ là các thức ăn dư thừa được chế biến lại.
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo
(bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với
lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan
truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao
được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.
Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao
thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa!
Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như
bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.
Các tiệm “cà phê hủ tíu” của Tàu lan rộng ra
nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống
đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tíu, chỉ nhìn cách trang trí
cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với
những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm
kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi,
Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.
Thịt quay Chợ Lớn
Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt xỉu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hoặc Con Chim. Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có
thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Tại
các tiệm “cà phê hủ tíu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà
(uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có
nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng
“broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu
hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã sử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng
hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh
sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.
Lạp xưởng (người Bắc gọi là Lạp xường) là một
món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất
niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như
Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp
xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba
trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với
rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp
xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu.
Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng
rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ
Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn
gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà
ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt
mỡ.
Bánh pía do một số
người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc
làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia
đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều
lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng
đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác
như ngày nay.
Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh
mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng
muối…
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là
những món nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn,
màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng
Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là
phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh
hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa,
trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường,
ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một
ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt
quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi”. Chuyện cờ
bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ
tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi
dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hột xí ngầu cũng có
thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là xóc đĩa.
Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến
sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột
lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười
trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người
chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy
thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng
là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút
vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai, thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là hai cặp và một con bất kỳ nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai, thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là hai cặp và một con bất kỳ nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và
“chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của
người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay
nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát.
Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất
thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa:
“Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”.
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với
các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hằng
ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc
từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bông Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên
trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới
tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ biết điều này khi
có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm
chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người
thành công trong kinh doanh. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang
trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai
Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên
60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.
Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất
và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm
Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico,
Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng
Đông…
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là
“chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số
tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô,
Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân
cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán
sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long
Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem đánh
răng Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng
kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền
thanh và truyền hình.
Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa gọi là vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa gọi là vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng
gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc
phải hợp tác với “nữ hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Tạ Vinh là
một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung
ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến
Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân
chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”.
Nguyễn Ngọc Chính
(Hồi ức một đời người)
(Hồi ức một đời người)
No comments:
Post a Comment