Monday, June 29, 2015

Tương lai chùa Việt ở Mỹ

Bài viết hay... rất là chính xác, đa số các vị tu sĩ Phật Giáo VN ngày nay chỉ dựa vào ma chay, cúng đám. Đòi hỏi với giá cả rất ư là "khiêm tốn". Vẫn biết là bánh ít đi thì bánh quy lại nhưng cái giá đưa ra mà chóng mặt. Mặc khác cái gì cũng nhờ vào Phật Tử nhưng lại bòn lót rất nhiều. Chùa chiền mọc lên như nấm mà hể xong xuôi là của tu sĩ chứ không có cái nào của bá tánh thập phương. Tu sĩ ở một mình, có khi hai chứ không có tăng đoàn. Hể ai về ở là thế nào cũng nồi, niêu, son, chảo, chén bay ì èo... Mặt dầy, mặt mốc, rồi lời nói thiếu khiếm nhã v.v... rồi từ từ mỗi tu sĩ một chùa ... kêu là chùa mà chỉ mình ên không tăng đoàn hay đoàn thể.
Giáo Hội PG ngày nay cũng không ít ý thức nhiều cho việc hoằng hoá (xin lỗi) mà chỉ dựa vào "phe" thành ra một người trụ trì cả mấy chùa thế cho nên các tu sĩ không cũng lập phe và đứng độc lập không vào giáo hội, so với giáo hội của Thiên Chúa Giáo là các cha, các mục sư sống đoàn thể và xây dựng cho nền kiến thức chung. Họ sẳn sàng làm việc không cần tiền "bo" để mang lợi cho Thiên Chúa Giáo. Vì tất cả làm cho Chúa. Trong giáo hội đưa ra là mỗi cha hay mục sư chỉ được 4 năm trụ xứ và xoay tua đi nơi khác để phục vụ cho Chúa, kêu gọi con chiên theo đoàn thể. Còn Phật Giáo ngày nay, (lại xin lỗi) cái gì cũng "dollars" cái gì cũng muốn "lấp biển vá trời". Của bá tánh là của tu sĩ chứ không của ai hết. Cả của chùa cũng không. Hể tu sĩ đi thì mang hết đồ tể đi theo và cho là PT cúng dường họ chứ không phải là cho Tam Bảo. Hạnh kiễm của các vị là sai vẫn sai, dẫn dắt PT phải kiểm thảo, phản tỉnh và sám hối nhưng các vị thì ít chịu sám hối hay phản tỉnh. Cho là "phước được hưỡng". Thôi thì ai có phước cứ hưỡng, hết phước thì xuống "đi bộ" chơi hihihihi....
Nếu ai đã từng lên Gott of Lourdes ở Maryland thì thấy rằng các cha sứ làm việc. Họ không cần tiền bạc bồi đắp. Chỉ gặp thôi, và trình bày "con có việc .v.v..." là các Cha đứng ngay tại chổ cầu nguyện liền. Nếu nói, "bạn con có chuyện không phải con" thì được Cha nói, "oh không chỉ cầu nguyện cho người đó mà tất cả người đang đứng kế cũng được sự hồng ân của Chúa". Còn tu sĩ PGVN ta thì sao? "ghi sớ đi tối Thầy đọc" nhưng có đọc không thì hõng biết à nha .... (DN xin cám ơn các vị Thầy/Cô đã đọc và lúc nào cũng thường xuyên cầu nguyện mỗi ngày). Có vị thì kêu, "ghi sớ và để tiền vào tối đọc", cái chuyện này có đó, vì bà chị họ đi tới chùa nhờ cầu nguyện thì được Thầy nói vậy ah.... còn vài số thì kêu "ghi sớ cầu nguyện mỗi đêm" trong những mùa Phật Đản, Vu Lan, Tết, hay occasion gì đó nhưng lại được Thầy random vài tờ sớ để đọc, riêng "người của Thầy" thì ngày nào cũng nghe hồi hướng. Hỏi thì Thầy nói, "có mặt thì tự cầu", arggggggggggggg ko biết có Satu, Satu không nữa đây. Amen luôn cho tiện! :((
Có một số Phật Tử không ít ngày nay chán ngán các sư VN và ùn ùn chạy sang Mật Tông Tây Tạng và rồi những người phụng sự cho các sư Tây Tạng cũng bắt chước các tu sĩ PGVN, đứng ra kêu gọi quyên góp xây tịnh xá nhưng rồi cũng mang hình thức lợi dụng. Họ làm president của tịnh xá và chỉ mang các sư Tây Tạng làm bù nhìn nhưng bên trong là ai nắm quyền, nắm tiền????  làm những chuyện ..... (ko nói cũng hiểu rồi!) nhưng vẫn được PT theo lắm... mặc khác cho là theo Mật Tông để mau chứng quả vì các sư hay quán đảnh. "Việc quán đảnh là để giúp cho người mất, kẻ sống được lợi lạc và vãng sanh về cảnh giới tốt đẹp. Nghiệp các PT làm, đều được xoá hết" nghe y như bên Chúa vậy, cứ xưng tội là xong, hết tội, (tiếp tục làm tiếp....) hihihi....

Phật bỏ tất cả để được englightment, còn ngày nay ...tu sĩ PGVN mong muốn được tất cả và luôn enlightment. Satu! Satu! Chưa kể các vị lợi dụng áo cà sa để làm việc bất chánh bên trong, đứng đường xin tiền mang đồ và xài hàng xịn như trên New York đã đưa tin. Tu sĩ PGVN có hết các hàng hoá cao cấp trong khi Phật Tử thì chẳng có gì hết cuộc sống các sư xây dựng trên vật chất!... lại phải Satu! Các tu sĩ VN hải ngoại không cần phải lo, vì các vị toàn từ 40 tuổi trở lên thành ra sau khi làm đám cho các senior chết hết thì tới chừng đó các vị cũn 60-80 tuổi, ăn tiền trợ cấp của chánh phủ thì tha hồ mà hưởng lộc trước khi ngũm củ tỏi về cõi ....... thỉnh triệu .... về cảnh giới "Niết Bàn".   Quá trình xuyển dương Phật pháp ngày nay hình như chỉ có chùa Hoằng Pháp ở VN là thấy được thôi được bao lâu thì không biết thì được nhiêu hay nhiêu.  Mong rằng không phải nhẫm lẫn về sau.
Nam mô A Di Đà Phật... Satu, Satu!
 
CTDN

------------------------------------------------------------------------------------------------------

Như các chùa của Tàu có mặt tại Mỹ trước đây, rất sớm, khi phong trào hồ hởi có thể lên đến vài ngàn ngôi mọc trên các tiểu bang Mỹ, rồi lần lượt rơi rụng chỉ còn vài chục. Duy nhất ngôi chùa Tây Lai Phật Quang Sơn của Hòa Thượng Tinh Vân ở Glenmark Dr. CA sừng sững tọa lạc trên đồi cao là có tầm vóc và vị thế tồn tại lâu dài.

Hiện nay chưa có thống kê đầy đủ về chùa, am, nói đúng và chính xác hơn là nơi thờ tự của các tu sĩ Phật giáo Việt Nam tại Mỹ; bời vì nếu gọi là chùa như quen gọi ở quê nhà, thì nơi đây phần lớn chưa có một tầm vóc, kiểu dáng của những ngôi chùa mang màu sắc Á Đông, đó chỉ là những ngôi nhà dân, họ mua lại để thờ và ở, quy tụ một ít tín đồ đến lễ bái. Những vị Tăng ở lâu năm, có tín đồ đông, mua được đất hoặc nhà lân cận để nới rộng khuôn viên, có chỗ đậu xe hơi vào ngày lễ lớn, từ đó tầm vóc ngôi chùa mới hình thành. Cali, Los, Houston, San jose, Sacramento, Virginia, Washington. DC…đều có chùa. Mỗi bang có luật riêng, trong đó nơi thờ tự tôn giáo đòi hỏi có parking như Washington DC, yêu cầu có từ 5 mẫu, nhiều cây xanh, và bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người tới lui, thậm chí không được làm nhà ăn, nhà bếp, nhà ở chung nơi thờ phượng. Ở Cali có vài chùa tạo được khuôn viên rộng thoáng, chư Tăng ở những ngôi chùa như thế cũng đã lâu dài. Một số nơi thờ phượng có ít tín đồ, không thể trả tiền cho ngân hàng, đều bị trưng thu là chuyện thường ở Mỹ.

Sáng 23/7 đến thăm chùa H. N của thầy P. T, trong lúc vừa trò chuyện, vừa làm việc, vì chùa đang xây dựng, thầy cho biết rất nhiều về sự rạn nứt trong cộng đồng tu sĩ. Tuy lượng số tu sĩ ở đây không bao nhiêu, nhưng có quá nhiều giáo hội, ngay cả cái gọi là Giáo hội PGVNTN, cũng chia làm nhiều mảnh. Vì thế,thầy dùng từ châm biếm nói đến hai chữ Giáo hội: “Cáo Hội”. Thầy cho biết nhân cách của những vị nổi tiếng cũng quá nhiều tai tiếng. Có vị góp 700 ngàn USD để xinđược chức phó Thủ Tướng của Nguyễn Hữu Chánh, khi tiền không còn để trả ngân hàng, dĩ nhiên chùa cũng theo mây khói, vào nhà băng. HT C.T chùa L. H tại Garden Grove, một thành phố phía Bắc quận Cam, tiểu bang Cali, (nơi đây dân số Việt Nam độ 360 ngàn người, chiếm khoản 22% dân số thành phố) thuộc Phật Giáo Liên Châu, cho biết, nhân lễ Phật Đản 2555, khi đề cập đến tình hình biển Đông, một tu sĩ nói: “Thà nô lệ cho Tàu cho Nga còn hơn cho Mỹ…” nghĩa là thầy ngao ngán tinh thần chính trị của Tăng sĩ ngày nay tại hải ngoại. Một Pháp sư trưởng lão của một hệ phái tạo dựng nhiều Tịnh xá, không có người trông nom, không có tiền tháng cho điện nước, nợ nhà băng, rồi cũng của Thiên trả Địa.

Hầu hết chùa lớn chùa nhỏ chỉ có từ một đến hai vị cư ngụ. Nếu tính kinh tế, phải bỏ ra hàng trăm ngàn, có khi cả triệu Mỹ kim từ túi tín đồ để xây dựng cơ sở như thế, thuế má, chi phí mọi thứ có khi lên cả ngàn USD hàng tháng, lúc nào đó không trả nỗi sẽ mất trắng cơ sở; cho dù thanh toán sòng phẳng hàng tháng thì quả là quá phí phạm chỉ để cho một hai vị trú ngụ. Quần chúng cuối tuần mới đến chùa một lần, có nơi cũng chẳng ai vãng lai nếu nơi đó có nhiều tai tiếng và bị chụp mũ. Do sợ chụp mũ mà có vị phải chống Cộng hăng tiết để minh chứng mình không là Cộng sản. Chống cộng trở thành cái vỏ bọc thời trang để có thu nhập. Thật ra quý thầy không ai muốn dây dưa vào chính trị, mục đích chính là có thu nhập dồi dào.

Một số vị du học từ Ấn Độ, bay qua Mỹ rồi ở luôn, một số từ Việt Nam đi du lịch, thăm viếng…cũng không chịu về lại. Họ tá túc tạm thời ngôi chùa quen, thời gian ngắn tung cánh chim tìm về tổ mới, có một ít tín đồ hỗ trợ mua nhà làm chùa. Khi đã có cơ sở, dĩ nhiên phải vay tiền ngân hàng để mua, họ vất vả để kiếm tiền thanh toán mọi chi phí nợ nần, không có thì giờ để học và tìm hiểu văn hóa sở tại. Một số có trình độ tại Việt Nam, qua Mỹ họ tiếp tục học hành để có bằng cấp, có kiến thức góp phần hoằng pháp cho tuổi trẻ tại Mỹ thì chưa tới vài vị. Phần lón không ai có chí học hỏi, qua Mỹ như là điều kiện để an phận và hưởng thụ. Tín vụ ma chay như một sở trường, họ đáp ứng cho thế hệ lớn tuổi. Thế hệ nầy qua thời gian dần dà rơi rụng trong vài mươi năm nữa. Tiếp đến thế hệ sanh từ Việt Nam, lớn lên từ Mỹ, được đào tạo văn hóa Mỹ, còn lưu lại một ít tín ngưỡng của cha mẹ ông bà, họ đến chùa như thói quen đề làm vui lòng người lớn; việc nghi lễ đối với thế hệ nầy không cần thiết, tìm hiểu giáo lý cũng không là một nhu cầu. Nếu có, họ cần nghe chư Tăng giảng dạy theo mô thức khoa học hơn là đức tin. Đến thế hệ thứ ba sanh tại Mỹ, lớn lên tại Mỹ, được giáo dục tại Mỹ, trở thành Mỹ rặt, họ chỉ khác màu da; Họ không biết tiếng Việt, chính vì thế họ cảm thấy lạt lẽo khi đến chùa mà chỉ nghe tiếng nói thuần Việt của các sư. Trình độ, ngôn ngữ của các sư không thích hợp với thế hệ trẻ như thế. Trong khi đó, chưa có một chú tiểu nào xuất gia tại Mỹ, có nghĩa là lớp kế thừa thuần Mỹ chưa có dấu hiệu xuất hiện, tre sẽ già mà măng chưa mọc. Chư Tăng được bảo lãnh qua cũng tiếp tục công việc ma chay đám cúng chứ không có khả năng ngoại ngữ để truyền đạt giáo lý trên đất nước Âu Mỹ. Sở dĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma và Thiền sư Nhất Hạnh thành công là vì truyền đạt giáo lý bằng ngôn ngữ sở tại.




Với số lượng hàng ngàn ngôi chùa trên khắp nước Mỹ bao nhiêu tốn kém chỉ để phục vụ lớp già và sắp già, khi thế hệ nầy không còn thì chùa tồn tại như một chứng tích lỗi thời? Chưa nói đến số người lớn tuổi không còn tự phục vụ, tự lái xe đến chùa, con cái bận công ăn việc làm bù đầu, mức thu nhập của chùa cũng vơi dần, ngoài việc lưu hủ cốt và thờ vong Bấy giờ chùa chỉ là nơi ký gủi người quá cố, phục vụ cho kẻ chết chứ không còn là cơ sở hoằng truyền chánh pháp. Trong khi đó, tại Việt Nam, hệ phái Tin Lành truyền bá ồ ạt, chỉ cần một đêm tới sáng là cả một vùng theo Tin Lành, nhất là vùng cao và thôn quê, họ không cần xây dựng nhà thờ, nhà nguyện; hội Thánh là trong tâm mỗi tín đồ, họ tụ tập luân phiên mỗi nhà tín hữu để cầu nguyện và phụng sự. Thay vì móc túi tín đồ xây dựng cơ sở thờ tự, họ chu cấp cho tín hữu cuộc sống. Họ nhiệt tâm trong việc ma chay mà không hề nêu giá làm tiền khi tang gia bối rối.Tại sao Tin Lành thành công trong việc truyền bá tín ngưỡng? Họ không câu nệ hình thức, không cơ sở, không chức sắc, không hưởng thụ và luôn có đức hy sinh, chịu khó. Họ không cần xin xăm bói quẻ xử dụng vàng mã để làm phương tiện hướng dẫn quần chúng có khi những phương tiện đó làm mê hoặc quần chúng như một số chùa. Ngược lại, chùa càng phát triển càng làm mất niềm tin quần chúng vì nhân cách của chư Tăng.

 
Tại hải ngoại, có những tín đồ ngoan đạo, cũng phải dán vào cửa văn phòng làm việc của mình tấm hình của vị phạm giới với dòng chữ MA TĂNG, có những người quá bất mãn, họ lẳng lặng đầu thú với ngoại giáo như một lối thoát của niềm tin và sự thất vọng. Với số lượng cơ sở vật chất của Phật giáo Việt Nam tại xứ người, không phục vụ cho xã hội âu Mỹ về Đạo lý trí tuệ mà chỉ là chứng tích tỵ nạn và nơi an dưỡng hưởng thụ cho những ai không có chí cầu tiến, dĩ nhiên, nhàn cư vi bất thiện, từ đó tệ nạn phát sanh…và, sư Việt sống với cộng đồng người Việt như người Hoa ở Chợ Lớn, Việt Nam cũng vậy, mỗi ngày mỗi thu hẹp sinh hoạt khi những thế hệ kế tiếp thuần là Mỹ hóa. Các chùa Tàu ở Mỹ hậu bán thế kỷ 20 đến thập niên đầu kỷ nguyên 21 bị thu hẹp thế nào thì chùa Việt Nam rồi đây cũng cùng chung số phận. Hiện nay, cộng đồng cư dân Việt Nam , Triều Tiên, Tàu là một trong số gốc chấu Á quy tụ nhiều tại Cali, Texas, San jose, được xem là Sài gòn nhỏ. Các sư Việt chưa có lối thoát cho tương lai, cứ nghĩ nơi nào có người Việt là chùa có thể tồn tại. Nếu chiết tính kỷ, 36 ngàn người Việt hiện nay ở Cali, chia đều cho Tin Lành , Vatican, Phật giáo, chưa nói đến các giáo phái khác, thì tín đồ Đạo Phật cũng chỉ 12 ngàn. Trong số 12 ngàn chia làm ba, một là tuổi trẻ, hai là tuổi trung niên và ba là tuổi già thì tuổi già chỉ còn bốn ngàn người cộng thêm phân nửa tuổi trung niên có tâm đạo cũng chỉ được sáu ngàn người đến chùa. Tuổi trẻ ở Mỹ thích đi chùa là chuyện hiếm hoi. Số bốn ngàn cho tuổi già, một ít không tự lái xe đi chùa được, phải nhờ con cháu. Suốt tuần cày mệt mỏi, con cháu cần nghỉ ngơi, làm vệ sinh nhà cửa và đi chợ mua thực phẩm cho suốt một tuần. Như thế số người chia đều cho hàng trăm ngôi chùa không phải là lớn, tiền của vật chất đổ vào việc xây dựng cơ sở đồ sộ như thế để làm gì khi mà tâm linh, sự tu tập và niềm khát vọng về giáo lý của quần chúng bị bỏ trống; chính vì quần chúng và chư Tăng không được trang bị nội lực mà chỉ chạy theo nhu cầu vật chất, liệu Phật giáo có bị biến dạng thành một loại doanh nghiệp mới? nếu chư Tăng không đủ khả năng trang bị cho mình một kiến thức thời đại để hội nhập xã hội văn minh, tự mình đào thải mình, an phận với ngôi chùa được thu nhập lợi tức từ việc thờ linh, lưu cốt, xã hội âu Mỹ sẽ hiểu Phật giáo là gì, chưa nói đến quần chúng Mỹ đang có một tôn giáo truyền thống, họ sẽ xem thường các sư và hình ảnh đức Phật xa lạ. Giới trí thức âu Mỹ hiểu về Đạo Phật qua tư tưởng triết học và thiền học, họ cũng không thể đến với chùa và các sư Việt Nam để lễ lạy cúng kiến.

Tổ chức Gia Đình Phật Tử, tuy là một đoà
n thể trẻ của con em người Việt, nhưng chúng cũng không mấy hứng thú với sự diễn dịch giáo lý mang tính huyền thoại và giáo án có từ 60 năm qua không được cập nhật, làm sao hấp dẫn các em bằng những thú vui cám dỗ của thời đại @ Ngày nay, cuộc sống xây dựng trên vật chất, nhưng vật chất không giúp xã hội hạnh phúc thật sự, vì thế tội phạm phát sanh. Đạo Phật xuất hiện mục đích giúp con người sống có hạnh phúc chứ không thể tạo thêm sự bất mãn thất vọng cho xã hội. Nếu chư Tăng chưa đủ khả năng chuyển hóa tâm linh cho quần chúng, ít ra cũng phải góp phần an ủi cho cộng đồng người Việt có một chỗ nương tựa tinh thần. Chùa lớn đất rộng tại sao chúng ta không lập nhà dưỡng lão cho các cụ, vừa gần chùa nghe kinh, vừa có tình người và con cháu viếng thăm tiện hơn đưa vào nhà dưỡng lão? Các cụ sẽ không còn cảm thấy cô đơn lạc lỏng giữa bốn vách tường và người xa lạ không cùng ngôn ngữ. Mở lớp dạy Việt ngữ, tổ chức các show bảo tồn văn hóa dân tộc và nhiều việc lợi ích cho cộng đồng hơn là an hưởng một cách thụ động.

Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăng và quần chúng đều hướng vào tâm linh và công ích xã hội thì tình thương sẽ phát triển, lòng đố kỵ chống báng nhau, chụp mũ nhau sẽ không còn; Phật giáo Việt Nam tại xứ người sẽ có bộ mặt tươi nhuận hơn, đi vào lòng xã hội dễ hơn và sự tồn tại của chùa Việt Nam mới có ý nghĩa hơn.
 
Chưa phải muộn để chư Tăng Việt Nam và các ngôi chùa Việt Nam trên đất Mỹ dọn cho mình con đường hội nhập và tồn tại. Các vị tiền nhiệm như cố Hòa Thượng Thiên Ân, Thiền sư Nhất Hạnh đã mở đường, chúng ta chỉ tiếp nối và khai phóng cho quang đãng, đừng để bị bít lối mà mang tội với chư Phật chư Tổ.

Có lẽ quần chúng Phật tử Việt kiều cũng chỉ mong ước có thế thôi, chư Tăng sẽ không còn nhìn nhau bằng sự ngờ vực, hố ngăn cách tự nó được lấp kín. Hy vọng chùa Việt sẽ là cơ sở tín ngưỡng tâm linh và công ích xã hội nhiều ý nghĩa dưới mắt người dân Mỹ hiện nay

.
Cu Si MINH MẪN

No comments:

Post a Comment