Những ngày tháng Tư Đen, QUỐC HẬN 30-4, niềm đau đớn xót xa chung của cả một dân tộc VIỆT.
Ông giáo sư dạy sử.
Kính chuyển bài viết cuả người bạn cùng khóa,K20VBQGVN, Vương Mộng Long
đến Niên trưởng, và bạn Tuấn. Có thể Niên trưởng đã đọc rồi trong Tập san Đa
Hiệu. Không sao, tôi đã đọc đến 3 lần rôì Niên trưởng nhưng càng đọc càng hận lũ
phản chiến, nguyên nhân làm chúng ta mất Miền Nam Viẹt Nam. Q. Thưởng K20.
|
Gần 38 năm đã trôi qua, nhưng
hận mất nước không bao giờ nguôi trong tâm tư của những
người "lính già". Có thể Quý Huynh đã 1
lần đọc bài
này, nhưng xin đọc lại để hảnh diện với :
" Tổ Quốc, Danh Dự, Trách
Nhiệm".
Tác giả - Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp,
Hội-An. -
Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị
Quốc-Gia Việt-Nam. -
Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. -
Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam
ra Bắc. -
Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu
Bang Washington, USA. -
Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington,
cấp bằng B.A SocialSciences and Communication. -
Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội,
3 cháu ngoại.
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để
đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe
bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông
cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông
(Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận
lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế
là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại
Shoreline Community College (Shoreline C. C.).
So với các trường
đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật
là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp
cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường
(1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp
nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc
trung học. Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày,
ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi
học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp
Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công
việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng
hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng
nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn
năm.
Một niên khóa
trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng
dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp
History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu
xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ
đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi
Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc
quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông
giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi
chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu
lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and
Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm
đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và
tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi
nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng
những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương
trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải
vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo
lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày
đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua.
Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu
của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử
không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo
hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc
Pháp.
Thầy khẳng định
rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai
(1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống
Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ
chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm
Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn
trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được
cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về
cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh,
Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương
vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh
…nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan
chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy
một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam
Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy
Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ,
một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội
ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book
said!”
Cứ cái điệp khúc
“Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay
rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có
chứng.
Thầy hùng hồn
thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng
lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào
chỗ chết.
Kết quả hai lần
khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót
lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng
tay.
Cả hai bài đều
lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là,
lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp
này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây
khói.
Tôi theo học lớp
này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống.
Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà
Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự
này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này
lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương
đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là
bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng
nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi
chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó
cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ
nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ
điểm.
Sau ngày có kết
quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những
tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển
tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng
nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo
kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa
đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã
thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn
vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những
thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng
tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh
luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan
về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để
trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C
khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng
gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học
cuối cùng. Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng
đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái,
nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư.
Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới
sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút
được không?
Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện
đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, - Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị
nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong
bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài
bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có
biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường
Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà
tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang
đó.
Thầy chỉ biết tới
những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh,
và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương
đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số
những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với
thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất
nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một
lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu
hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là
tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy
không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt
Động Quân Việt-Nam Cộng-Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba
người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá
Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn
vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ
máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những
liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam.
Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ
đức độ anh minh.
Chính tên sát
nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô
tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm
ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu
trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có
một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng
có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê
hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé
gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm
của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân
Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị
trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái
chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa
từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái
xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm
hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền
đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn
nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát
lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn
vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi
Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa
tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai
tôi,
- Ông cứ ngồi
đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng
cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho
người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp
tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần
ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư.
Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính
bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh
Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy
Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước
lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời
chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới
những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những
địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở
Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận,
ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực
trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã
làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường,
muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn
cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ
yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút
tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo
biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao
giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới
rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng
thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới
Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng
thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có
nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận
đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng
quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai
luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều
thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật
lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu
kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết
rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm
trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã
giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời
ơi!”
Thầy Dan cũng
muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân
nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên
khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã
mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế
chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác
gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực.
Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập,
phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ
nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông
giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những
cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của
vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ
chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo
biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi
đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ
phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam
đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng
Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến
tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm
vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại
một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất
trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì
người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui,
chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền
Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối
Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung
ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng
bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này,
tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân
Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình
Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự
hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số
2,
- Đây! Thưa thầy,
cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới
bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị
trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và
đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến
đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ
cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu
trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây
một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút,
tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ
Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh
và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó
là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung
phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C.
này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi
trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me
cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng
chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài
hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly.
Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn
viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế,
chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã
chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và
chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản
chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng
tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ
nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè
đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của
anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện
nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh
ấy,
“Bạn có cảm thông
nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett,
Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách
dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt
khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu
phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời
gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng
không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có
người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương
hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm
rồi.”
Sau câu chuyện
này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông
giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai
miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách
giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với
Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ
đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ,
năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu
nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi
lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam
đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm
KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó
phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong
những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến
tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần
nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử
như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời
ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai
mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ,
chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ,
hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông.
Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những
lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước
mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho
tôi bắt,
“Thưa người chiến
binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường
về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng
Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng
hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II
hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa
Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa,
trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm
(4.00).
Cuối mùa Spring
2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của
Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa
con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận
văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư
có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud
of you!”
Đến lúc bà Hiệu
Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân
khấu,
“My soldier! I’m
loving you!”
Ông là một người
cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong
phim “Người Dơi”.
Những người có
mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc
nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy
ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài
cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University
of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn
học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm
lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ
buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen
của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa
lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011 Vương Mộng
Long-K20
Sưu Tầm |
No comments:
Post a Comment