Thursday, March 22, 2012

Om Mani Padme Hum là gì?


Mani là tượng trưng cho phương tiện và padme tượng trưng cho trí tuệ. Nói cách khác, hai từ này gồm chứa toàn bộ con đường được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khám phá; con đường dẫn tới Niết bàn - sự giải thoát khỏi đau khổ. Tất cả những con đường đưa đến Giác ngộ được bao gồm trong phương tiện và trí tuệ; do đó, chúng được bao hàm bởi mani và padme.


OM MANI PADME HUM bao hàm danh hiệu của Đức Quán Tự Tại (Chenrezig), Đấng Bi mẫn vĩ đại. Trì tụng thần chú này thì giống như kêu gọi mẹ của bạn. Bạn kêu gọi mẹ bạn để bà quan tâm tới bạn và sau đó bạn thỉnh cầu bà những gì bạn ước muốn: kem, sô-cô-la, mọi sự! Khi bạn trì tụng OM MANI PADME HUM, tức là bạn đang kêu cầu thánh hiệu của Đức Quán Tự Tại, và âm HUM tác động lên tâm linh thánh của Ngài. Điều bạn đang kêu cầu Ngài là xin ban phước cho tâm bạn - không chỉ cho riêng bạn mà còn cho tâm thức của chúng sinh khác - để gieo trồng cội gốc của con đường dẫn tới giác ngộ, phương tiện và trí tuệ được bao hàm trong mani và padme.

Chữ OM (Phạn ngữ hay Tây Tạng) có ba phần. Thân của chữ này là ah, âm mẹ. Trên nó là một đường gợn sóng được gọi là (trong tiếng Tây Tạng) một naro, nguyên âm biến đổi âm “ah” thành “o”. Trên đó là một số 0 nhỏ, nó thêm vào âm “m”. Ba thành phần này thêm vào cho “om” và biểu hiện ba kaya (thân), hay thân, khẩu và ý kim cương. Những ý niệm bất tịnh của bạn về thân, khẩu và ý chuyển hóa thành thân, khẩu và ý kim cương hoàn toàn thanh tịnh của Đức Quán Tự Tại, Đấng Bi mẫn vĩ đại. Như thế, OM có nghĩa là sự giác ngộ.

Như vậy, đây là ý nghĩa của OM MANI PADME HUM; sự bắt đầu, hay nguyên nhân, của con đường, bản thân con đường, và kết quả. Nó giống như một cái cây với gốc, thân và quả. Lục Tự Minh Thần chú thì rất có duyên vơi mọi chúng sanh cõi Ta Bà tùy theo duyên khởi mà trì chú.  Om Mani Padme Hum cũng là một câu thần chú được coi là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng.  Nó còn được mệnh danh là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ” mà trong kinh Phổ Môn chúng ta thường hay nghe thấy.

Thần chú Om Mani Padme Hum theo Thích Nữ Trí Hải dịch có nói, “đôi lúc được giải thích với ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, đây đơn giản chỉ là tên của Ngài Bồ Tát Quán Âm (Chenrezig) dược đặt giữa hai âm thanh truyền thong và thiêng liêng Om và Hum (hay Hung).

Om là tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm này.

Mani là châu báo theo tiếng Sankrit Padme  hay Peme trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là hoa senHu, tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.

Mani nói về châu báu mà Ngày Quán Thế Âm Bồ Tát cầm trong hai tay giữa và Padme là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì.  Khi gọi MANI PADME là gọi tên Ngài Chenrezig xuyên qua những phẫm hạnh của Ngài.  Người đang cầm châu báo và hoa sen.  Chenrezig hoặc hoa sen báu là hai tên gọi của ngài Quán Âm.

Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lai tên Ngài Chenrezig. Thực tập này có lẽ trông lạ lùng. Mặc khác nếu như niệm câu chú OM MANI PADME HUM thì có ý nghĩa được “đầu tư” bỡi sự thanh nhã và năng lục tâm thức của Ngài Quán Âm.  Ngài Chenrezig đã gom sự từ bi thanh nhã vị tha của các vị Phật và Bồ Tát để vén màn tâm tối và tịnh hoá tâm thức chúng ta.  Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.

Các vị bồ tát và thần chú là nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng mà niệm chú vẫn có hiệu quả khác với hành giả Mật Tông tu theo Mật tông Tây Tạng không phải chỉ đơn thuần trì chú mà còn phải kết hợp với pháp quán tưởng nữa. 


Phẫm chất xác thực của mỗi âm trong sáu câu của thần chú được giải thích phù hợp như sau:

Theo ni Sư Trí Hải thì trước tiên chúng ta hãy xem mỗi chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi:

OM, đóng cánh cửa luân hồi trong cõi Trời;
MA, cánh cửa cõi Thần, A-Tu-La;
NI, cánh cửa cõi người;
PAD, cánh cửa cõi súc sanh;
ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ;
HUM, cánh cửa cõi địa ngục.

Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hoá:

OM, thanh tịnh hoá bản thân;
MA, thanh tịnh hoá lời nói;
NI, thanh tịnh hoá tâm thức;
PAD, thanh tịnh hoá những cãm xúc mâu thuẫn;
ME, thanh tịnh hoá điều kiện ẩn tàng; và
HUM, thanh tịnh hoá tấm màn che phủ trí tuệ.

Mỗi âm tiết là một bài nguyện cầu:

OM, lời nguyện cầu hướng về thân thể của các vị Phật;
MA, lời nguyện cầu hướng về lời nói của các vị Phật;
NI, lời nguyện cầu hướng về tâm thức của các vị Phật;
PAD, lời nguyện cầu hướng về những phẫm chất củacác vị Phật;
ME, lời nguyện cầu hướng về hoạt động của các vị Phật;
HUM, gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu,ý, phẫm chất và hoạt động của các vị Phật.


6 âm tiết liên hệ tới Sáu Ba-La-Mật, Sáu sự hoàn hảo được chuyển hoá:

OM, liên hệ đến sự rộng lượng
MA, đạo đức
NI, kiên trì, nhẫn nhịn
PAD, chuyên cần
ME, chú tâm
HUM, trí tuệ

6 âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật ngự trị trên sáu Phật gia:

OM, liên hệ đến Bảo-Sanh Phật (Ratnasambhava)
MA, Bất-Không-Thành-Tựu Phật (Amaghsiddi)
NI, Kim-Cương-Trì và Phổ-Hiền Bồ Tát (Vajradhara)
PAD, Lô-Xá-Na Phật (Vairocana)
ME, A-Di-Đà Phật (Amitabha)
HUM, A-Súc-Bệ Phật (Akshobya)

Cuối cùng, 6 âm tiết liên hệ đến 6 trí tuệ:

OM, trí tuệ thanh thản, bình an;
MA, trí tuệ hoạt động;
NI, trí tuệ tự tái sanh;
PAD, trí tuệ pháp giới;
ME, trí tuệ phân biệt;
HUM, trí tuệ như gương.

Câu chú có thể tóm tắt như sau theo ni sư Trí-Hải:

“Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hoá. Vị Bồ-Tát sở hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thóat khỏi những nỗi đau khổ của chúng sanh trong sáu cõi:

OM MANI PADME HUM cũng bao gồm mọi sự hiện hữu - sự duyên sinh và tánh Không: mani và padme. Mọi sự hiện hữu được gồm chứa trong hai chân lý; mọi điều này được bao hàm trong mani và padme: chân lý tuyệt đối trong padme, và chân lý quy ước, chân lý của tâm hoàn toàn bị ngăn che, trong mani.  Cũng là bài bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của các vị Phật, những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí Ẩn về các vị Phật, cũng là nguồn gốc của tất cả mọi phẫm hạnh phúc sâu sắc, gốc rể thành tựu lợi ích, sung sướng mà con đường vĩ đại của các Ngài mang đến những hiện hữ tự do cao cả.

Thông thường thì những người bình thường trì tụng OM MANI PADME HUM có một trái tim tốt lành cho dù họ không thấu hiểu giáo lý hay thiền định về con đường tiệm thứ dẫn tới giác ngộ. Điều này xảy ra hoàn toàn nhờ vào niềm tin nơi Đức Phật Bi Mẫn, Đấng Bi mẫn vĩ đại và việc trì tụng thần chú của Ngài. Bạn cần có một trái tim tốt lành ngay cả để có được hạnh phúc trong đời này, sự an bình của tâm hồn trong đời sống hàng ngày. Một trái tim tốt lành là điều vô cùng cần thiết; nó là cách thế duy nhất. Việc trì tụng thần chú này rất ích lợi. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tâm thức.

Khi bạn trì tụng thần chú OM MANI PADME HUM bạn không nên cảm nhận thái quá về thân tướng của Đức Quán Tự Tại (Chenrezig) mà nên cảm nhận về tinh túy hay bản tánh của Ngài. Nếu bạn không thoải mái khi quán tưởng Ngài ở trên đỉnh đầu bạn thì hãy quán tưởng Ngài ở trước mặt. Hãy quán tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh hiển lộ trong phương diện ngàn tay ngàn mắt. Bản tánh của thân linh thánh của Ngài là ánh sáng. Ngài đang mỉm cười và đầy bi mẫn, đôi mắt từ ái nhìn thẳng vào bạn - một chúng sinh đau khổ, lầm lạc - và cũng nhìn tất cả chúng sinh khác.
Mô Phật!
   



No comments:

Post a Comment